Con đã về nơi Bác ở ngày xưa
I
Con đã về nơi Bác ở ngày xưa
Đường biên giới rậm dài đá dốc.
Nơi Bác hôn nắm đất giữa nương ngô.
Ôi! năm đất về với tay “Người” dựng nước.
Giữa rừng núi còn dấu chân giặc cướp.
Lán ẩn cheo leo, rải rác hốc thông già.
Cỏ bấu ngâm đầy cho dòng suối trôi qua
Suối rửa miếng ăn người dân đói khổ.
Bác về, mời cụ “Các Mác” về, trên núi đá
Trong cả lòng hang, Bác tạc tượng người.
Như tạc niềm tin cho con cháu đời đời
Từ thẳm rừng sâu ngời lên chủ nghĩa.
Noọng gái nào năm xưa gạt lệ?
Địu chăn về, lo hang gió mông mênh.
Noọng đâu biết: trời tháng tám từ dây xoá mù.
Mới hé
Và cũng tự nơi đây ươm sắc nắng Ba Đình.
Dòng suối âm u hồng dậy ánh bình minh.
Mang tình cảm Lê-nin tràn đất nước.
Dòng suối từ ba mươi năm trước.
Từng đau gót chân thương, qua, lại đôi bờ.
Đàn cá về đớp hạt cơm ngô.
Bơi hớp cả lời thơ cảm khái.
Ta mượn gương xanh lẵng lại
Buổi chiều nào râu Bác trắng ưu tư?
Để đến hôm nay thuỷ điện ngợp bờ.
Khắp nẻo rừng cao, trào ra ánh sáng.
II
Bàn đá chông chênh còn ngồi sử Đảng
Chim rừng ơi, ngươi có lắng nghe?
Khắp bốn phương bí mật những ai về?
Theo tay Bác viết thêm trang sử.
Những làn rêu không phủ chân quá khứ
Mà trải nhung vàng chào đón bước tương lai.
Ghé đá còn đây hơi ấm Bác ngồi
Với những anh hùng ngàn xưa cứu nước.
Cây ngót rừng còn nhớ tay người phát
Ngọn cằn rơi, cho mầm nẩy mỡ màng
Rặng trúc thanh cao vươn thẳng lên ngàn.
Cây đứng nương cây mặc cơn bão táp.
Ô cải xoong cho suối thêm tươi mát
Sắn xanh nương trùm cỏ dại, lau hoang.
Lá ổi mỗi ngày thay cánh chè thơm.
May mạ xum xuê che mù mắt giặc.
Những hàng cây đầu tiên cho “Tổ quốc”
Từ nắm đất Bác mang về chăm bón gốc yêu thương.
III
Cháu gái nào mang bóng dáng quê hương?
Vương Thị Hú, leo đèo, lội suối.
Gói cơm ngô, ống canh gừng nóng hổi:
“Ông Ké à, đừng bỏ bữa rau măng!”
Những bữa nghèo san sẻ, kính dâng.
Nào đâu biết mình nuôi cách mạng!
Người gái Nùng quen khâu giầy, tìm bột báng.
Được Bác đặt tên mang sắc sen vàng.
Hòm thư cao lăn đá níu, víu dây sang
Ghét đế quốc nên không chờn con rắn
Nông Thị Bảy vượt ngục, bỏ nhà đi từ buổi sáng
Làm cháu già Thu, được học mỗi ngày.
Mang nặng thù chồng, lòng chị có hay
Được Bác luyện rên nối dòng Trưng nữ.
Và khi Hoàng Thị Nga bụng từng đỉnh rú
Leo giữa mây mù nhịn đói, tìm dân.
Chị đâu biết giữa muôn ngàn, gian khổ
Như cô gái Nga xưa
Nhớ Bác vững tinh thần.
Rồi những cô Hoa, cô Đào, từ Pắc-Pó
Giắt súng võ trang giải phóng từng miền
Đến em lái xúc quặng tìm vàng trên mỏ.
Cô chủ tịch vùng cao, chị chánh án toà trên.
Tất cả người gái Tày, Nùng đảm đang hậu tuyến
Còn nhớ ngày xưa không biết làm người.
Góc núi đầu nguồn cuộc đời sâu kiến.
Từ cụ Ké về, như hoa nở rừng tươi.
IV
Ngoài tiền phương, anh Giải phóng chưa nguôi
Mối thù bản năm nào trên địu mẹ
Vượt biên giới, tránh Tây càn, khóc ré
Không áo quần sưởi lá, ủ than tro.
Đầu lở, thân lem ra đón Bác Hồ.
Ai biết tấm lòng “Người” đau xót
Bàn tay già rửa từng mụn trốc
Đun từng thuyền nước nóng tắm yêu thương.
Giữa những ngày đói rét, tha phương.
Rau má nhai khô, đau hàng răng yếu.
Dân thương ông Ké, làm riêng bát cháo.
Bát cháo trứng thơm, lành. Bác nuốt sao trôi?
Tay nâng lên, nhường bà cụ tám mươi.
Công cuộc sống gần trăm tuất khổ
Ôi những giọt nước mắt già, nóng nhỏ.
Cho cháu con căm uất đuổi xâm lăng.
Bác Hồ ơi, đã mấy mươi năm.
Từ nắm đất Bác đem về dựng nước.
Rừng Pắc Pó uy nghiêm đài Các Mác
Suối Lê-nin trong vắt, xanh nguồn.
Con đã về đây, đi giữa lúa vàng thơm
Lòng nhớ Bác như nương đồng ơn nước.
Ôi, nếu được trở về ngày tháng trước.
Bác lại về như Bụt hiện giữa rừng cây.
Mùa cốm lên hương, vang đất nước nhịp chày.
Pắc Pó, tháng 9 năm 1969
Hà Nội, tháng 9 năm 1969
*
Nơi Bác Đã Đi Qua – Dấu Chân Lịch Sử
Có những vùng đất không chỉ là địa danh trên bản đồ, mà còn là nơi ghi dấu những bước chân vĩ đại, nơi thấm đượm tinh thần đấu tranh và lòng yêu nước bất diệt. Con đã về nơi Bác ở ngày xưa của nhà thơ Anh Thơ là một bài thơ đầy cảm xúc, đưa người đọc trở về với Pắc Pó – nơi Bác Hồ từng sống và hoạt động cách mạng, nơi đã chứng kiến những tháng ngày gian lao nhưng cũng đầy hy vọng của dân tộc.
Dấu Chân Người Trên Đất Mẹ
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh người con trở về nơi Bác từng ở, nơi những dấu chân đầu tiên của hành trình cứu nước còn in hằn trên từng tấc đất, từng dòng suối:
“Con đã về nơi Bác ở ngày xưa
Đường biên giới rậm dài đá dốc.
Nơi Bác hôn nắm đất giữa nương ngô.”
Pắc Pó không chỉ là một địa danh, mà còn là biểu tượng của một thời kỳ hào hùng, nơi Bác Hồ đã đặt những viên gạch đầu tiên cho sự nghiệp cách mạng. Chính tại đây, Bác đã dựng lên lý tưởng đấu tranh, biến vùng rừng núi hoang sơ thành một trung tâm kháng chiến đầy sức mạnh.
Niềm Tin Ngời Lên Từ Gian Khổ
Không chỉ đơn thuần nhắc lại kỷ niệm, bài thơ còn khắc họa hình ảnh Bác Hồ trong những ngày tháng gian nan:
“Bác về, mời cụ ‘Các Mác’ về, trên núi đá
Trong cả lòng hang, Bác tạc tượng người.
Như tạc niềm tin cho con cháu đời đời
Từ thẳm rừng sâu ngời lên chủ nghĩa.”
Chính trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, Bác vẫn mang trong mình một ý chí vững vàng, một niềm tin kiên định vào tương lai. Người không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mà còn mang đến cho thế hệ mai sau một nền tảng tư tưởng bền vững.
Những Con Người Bình Dị Đã Làm Nên Lịch Sử
Không chỉ ca ngợi Bác Hồ, bài thơ còn nhắc đến những con người bình dị đã đồng hành cùng Người:
“Cháu gái nào mang bóng dáng quê hương?
Vương Thị Hú, leo đèo, lội suối.
Gói cơm ngô, ống canh gừng nóng hổi:
‘Ông Ké à, đừng bỏ bữa rau măng!'”
Họ là những cô gái Tày, Nùng, là những người nông dân, chiến sĩ, đã hy sinh thầm lặng vì cách mạng. Từ những bữa cơm đạm bạc san sẻ cho Bác đến những bước chân lặng lẽ băng rừng, vượt suối, họ đã góp phần tạo nên sức mạnh bền bỉ của cả dân tộc.
Sự Hy Sinh Và Lòng Nhân Ái
Giữa gian khổ, tấm lòng nhân ái của Bác vẫn sáng ngời:
“Bàn tay già rửa từng mụn trốc
Đun từng thuyền nước nóng tắm yêu thương.”
Bác không chỉ là lãnh tụ, mà còn là người cha, người ông của dân tộc. Người lo lắng cho từng miếng ăn, giấc ngủ của nhân dân, dành tình yêu thương cho từng em bé, từng cụ già trong cơn hoạn nạn.
Lời Kết – Hành Trình Của Tinh Thần Dân Tộc
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh Pắc Pó hôm nay, nơi suối Lê-nin vẫn trong xanh, nơi bàn đá năm nào vẫn lưu giữ hơi ấm của Bác:
“Con đã về đây, đi giữa lúa vàng thơm
Lòng nhớ Bác như nương đồng ơn nước.
Ôi, nếu được trở về ngày tháng trước.
Bác lại về như Bụt hiện giữa rừng cây.”
Dù thời gian trôi qua, dù Bác đã đi xa, nhưng tinh thần của Người vẫn còn mãi, như suối nguồn không bao giờ cạn, tiếp tục soi sáng con đường cho dân tộc Việt Nam.
Bài thơ không chỉ là lời tri ân với Bác Hồ mà còn là lời nhắc nhở về những giá trị cao đẹp của lòng yêu nước, của sự hy sinh và của niềm tin vào tương lai. Pắc Pó – nơi Bác đã đi qua – mãi mãi là biểu tượng của tinh thần cách mạng, của lòng kiên trung và của một thời đại không thể nào quên.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.