Ngày hội bắn
Sông Lô, cả đêm qua thức những mái chèo
Sông nước năm xưa từng nhuộm hồng máu giặc
Nay trải tấm gương dài in bao màu sắc
Những thắt lưng vàng, váy gấm, yếm thêu.
Hội bắn mở giữa ngày đánh Mỹ
Có tay săn con gấu, con chồn
Tay phát nương ngô, tay tra lúa rẩy
Và tay dịu dàng mắc võng, đầy nôi con.
Bảy tỉnh về đây, hội thi bắn giỏi
Tấm khăn Piêu rực rỡ xa trường
Ôi cô Thái khi ngắm mục tiêu thù nắng dọi
Lá rụng sẽ không nhiều bằng mảnh máy bay tan.
Anh huấn luyện viên Nùng, trên bệ bắn
Góp ý đường đi cho đạn trúng vòng mười.
Người vợ bồng con, nâng cây súng đảm thang
Mỹ ơi, mày phải thua rồi.
Súng ngân, súng dài, năm, quì, đứng ban.
Cô gái Mường ở tận Cháu-mai
Anh Cao-lan đỉnh núi Là. mây trâng.
Đạn thi đua giòn, chói cả ánh trời.
Ngày hội bạn cũng ngày vui dân tộc
Sông sông Lô hòa làn sóng sông Do.
Giặc Mỹ đến đây núi cao càng có móc
Sau tiếng súng giòn, là tiếng chim ca.
Tuyên Quang, tháng 6-1967
*
Ngày Hội Bắn – Hội Tụ Sức Mạnh Dân Tộc
Bài thơ Ngày hội bắn của nhà thơ Anh Thơ khắc họa một bức tranh vừa hào hùng, vừa rực rỡ sắc màu của đồng bào các dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đó không chỉ là một ngày hội thể hiện kỹ năng bắn súng mà còn là ngày hội của lòng yêu nước, của tinh thần đoàn kết, của ý chí kiên cường bảo vệ quê hương.
Sông Lô – Chứng Nhân Lịch Sử Và Hiện Tại
Ngay từ những câu thơ đầu, hình ảnh sông Lô hiện lên như một chứng nhân lịch sử:
“Sông Lô, cả đêm qua thức những mái chèo
Sông nước năm xưa từng nhuộm hồng máu giặc.”
Dòng sông ấy đã từng chứng kiến bao trận đánh oanh liệt, nơi máu của những người anh hùng đã nhuộm đỏ làn nước. Nhưng hôm nay, sông Lô không chỉ còn là chứng tích chiến tranh mà còn phản chiếu hình ảnh tươi đẹp của ngày hội:
“Nay trải tấm gương dài in bao màu sắc
Những thắt lưng vàng, váy gấm, yếm thêu.”
Tấm gương nước sông Lô in bóng những tà váy thổ cẩm, những yếm thêu duyên dáng, tạo nên một khung cảnh rực rỡ sắc màu của ngày hội. Sự đối lập giữa quá khứ đau thương và hiện tại đầy sức sống làm nổi bật tinh thần kiên cường của con người Việt Nam: dù trong chiến tranh hay hòa bình, họ vẫn mang trong mình vẻ đẹp bất khuất và yêu đời.
Những Người Chiến Sĩ Bình Dị
Ngày hội bắn không chỉ quy tụ những người lính chuyên nghiệp, mà còn có sự góp mặt của những con người bình dị trong cuộc sống thường ngày:
“Có tay săn con gấu, con chồn
Tay phát nương ngô, tay tra lúa rẫy
Và tay dịu dàng mắc võng, đầy nôi con.”
Họ có thể là những thợ săn thiện xạ, là những người nông dân cày cuốc trên nương rẫy, là những người mẹ vừa bồng con vừa cầm chắc tay súng. Chính họ – những con người tưởng chừng chỉ quen với lao động, lại trở thành những chiến sĩ xuất sắc trên thao trường, sẵn sàng bảo vệ quê hương.
Tinh Thần Thi Đua Sôi Nổi
Bảy tỉnh cùng hội tụ về ngày hội bắn, mang theo những sắc màu văn hóa độc đáo:
“Tấm khăn Piêu rực rỡ xa trường
Ôi cô Thái khi ngắm mục tiêu thù nắng dọi
Lá rụng sẽ không nhiều bằng mảnh máy bay tan.”
Câu thơ không chỉ vẽ nên hình ảnh một cô gái Thái duyên dáng mà còn ẩn chứa quyết tâm sắt đá: mỗi viên đạn bắn ra là một mảnh máy bay giặc tan tành. Cùng với đó là hình ảnh người huấn luyện viên Nùng tận tâm chỉ dẫn, người vợ trẻ ôm con nhưng vẫn nâng súng vững vàng:
“Anh huấn luyện viên Nùng, trên bệ bắn
Góp ý đường đi cho đạn trúng vòng mười.
Người vợ bồng con, nâng cây súng đảm thang
Mỹ ơi, mày phải thua rồi.”
Tinh thần chiến đấu lan tỏa trong từng con người, biến ngày hội bắn trở thành ngày hội của ý chí và niềm tin chiến thắng.
Tiếng Súng Thi Đua Và Khúc Khải Hoàn
Không khí ngày hội được đẩy lên cao trào với những loạt đạn vang trời:
“Súng ngân, súng dài, nằm, quỳ, đứng bắn.
Cô gái Mường ở tận Cháu-mai
Anh Cao-lan đỉnh núi Là, mây trắng.
Đạn thi đua giòn, chói cả ánh trời.”
Từng viên đạn là minh chứng cho lòng dũng cảm, cho tinh thần quyết thắng. Mỗi phát bắn không chỉ là một bài thi, mà còn là một lời tuyên thệ với Tổ quốc, với nhân dân.
Lời Kết
Bài thơ Ngày hội bắn không chỉ là một bản hùng ca ca ngợi tinh thần chiến đấu của quân và dân ta, mà còn là bức tranh tuyệt đẹp về sự đoàn kết của các dân tộc Việt Nam. Ngày hội ấy không chỉ là ngày hội thể thao, mà còn là ngày hội của lòng yêu nước, của sự sẵn sàng hy sinh để bảo vệ quê hương.
Kết thúc bài thơ, nhà thơ Anh Thơ nhấn mạnh rằng sau những tiếng súng thi đua, sẽ là tiếng chim ca, là hòa bình, là tương lai tươi sáng:
“Sau tiếng súng giòn, là tiếng chim ca.”
Đó chính là niềm tin vào ngày mai, vào một đất nước thanh bình, nơi mà mỗi người dân đều có thể sống trong hạnh phúc, yên vui.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.