Nhớ dài
Tàu đi trong bóng hoàng hôn,
Đường dài sương tối, khói dồn mây đen,
Gió bay sầm sập máy rền,
Hoa than phấp phới, hoa đèn ai trông?
Này đây cầu lạnh lùng sông,
Này đây quán vắng giữa đồng mênh mang…
Trông không dãy chợ bên đàng,
Âm u vài luỹ tre làng xa xa…
Dặm dài… ga lại rồi ga,
Ánh đèn điện trắng, hay là bình minh?
Nhớ ai ai có nhớ mình?
Trăng cao một mảnh chung tình đua nhau.
Một đêm trên tàu Nam
Đăng trên tuần báo Thanh niên, số 26, ngày 26-2-1944.
*
Nhớ Trên Những Chuyến Tàu Xa
Đêm dài, tàu lăn bánh trong bóng hoàng hôn, mang theo những chuyến đi vô định, những nỗi nhớ trải dọc theo từng cung đường, từng sân ga mịt mù sương khói. Bài thơ Nhớ dài của Anh Thơ không chỉ là một bức tranh chập chờn về hành trình xuyên màn đêm mà còn là tiếng lòng của một người xa xứ, chất chứa bao niềm thương, bao hoài vọng không thể gọi tên.
Mở đầu bài thơ, khung cảnh hiện lên với gam màu tối trầm mặc:
“Tàu đi trong bóng hoàng hôn,
Đường dài sương tối, khói dồn mây đen.”
Chuyến tàu xuyên đêm mang theo cái lạnh của sương, cái mịt mù của khói, cái chập chờn của ánh sáng. Trong không gian ấy, âm thanh của gió, của máy tàu hòa quyện, tạo nên một nhịp điệu dồn dập, cuốn người lữ khách vào dòng suy nghĩ miên man.
Những hình ảnh vụt qua cửa sổ tàu như những nét chấm phá đầy cô đơn:
“Này đây cầu lạnh lùng sông,
Này đây quán vắng giữa đồng mênh mang…”
Cây cầu bắc ngang dòng sông trôi lặng lẽ, quán nhỏ hoang vắng giữa đồng rộng, xa xa là lũy tre làng ẩn hiện trong màn đêm. Những hình ảnh ấy không chỉ gợi lên sự hoang sơ của khung cảnh mà còn phản chiếu tâm trạng trống trải, lạc lõng của người trên chuyến tàu khuya.
Những sân ga nối tiếp nhau, ánh đèn điện rọi sáng không gian, nhưng dường như không xua tan được nỗi buồn:
“Dặm dài… ga lại rồi ga,
Ánh đèn điện trắng, hay là bình minh?”
Đèn sáng nhưng lòng vẫn u tối, bình minh chưa tới mà chỉ có ánh sáng nhân tạo của những nhà ga lạnh lẽo. Trên chuyến tàu này, người lữ khách đang đi đâu? Đang hướng về đâu? Chỉ biết rằng, trong lòng ngập tràn một nỗi nhớ…
“Nhớ ai ai có nhớ mình?
Trăng cao một mảnh chung tình đua nhau.”
Nỗi nhớ dâng lên trong lòng người xa xứ, nhưng liệu người ở lại có nhớ đến mình không? Câu hỏi ấy vang lên không có lời đáp, chỉ có ánh trăng cao kia vẫn chung tình soi sáng, nhưng cũng lạnh lùng, xa vời.
Bài thơ Nhớ dài không chỉ khắc họa một đêm trên chuyến tàu Nam mà còn là nỗi cô đơn trải dài theo những sân ga, những quán vắng, những con đường hun hút. Nỗi nhớ trong bài thơ không cụ thể, không gọi đích danh một ai, mà là nỗi nhớ của tất cả những người từng lênh đênh trên những chuyến tàu, những người từng xa quê, xa một miền ký ức, xa một bóng hình thương yêu…
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.