Cảm nhận bài thơ: Tiếng đất – Anh Thơ

Tiếng đất

 

Có ai nghe tiếng đất âm thầm?
Đã một trăm năm từ ngày mất nước
Giữa đồi sỏi sim mua thưa thớt
Giữa bụi, bờ xao xác tre gai
Giữa cánh đồng chó chạy hở đuôi
Cấy đứng, gặt ngồi đất không lấm cẳng
Có ai nghe tiếng than miền đất trắng?

Từ năm mươi vạn năm xưa
Đất ta sinh từ lòng đá
Qua những ngày băng giá
Nắng bốc băng tan, mưa đổ sói mòn
Mặt trời nung đá vụn đầu nguồn.
Nước cuộn đến hòa thêm dinh dưỡng.

Ta theo dòng sông Cầu chảy xuống
Thành phù sa bồi đắp ruộng đồng
Thêm những tay người vun xới ươm trồng.
Trăm năm trước đất nằm xanh bóng mát.
Cây đứng đầy ôm, ruộng đồng tươi ngát

Trăm năm sau đã là đất bạc màu
Ôi! ai biết nỗi thầm đau?
Khi ruộng đất vào tay giặc cướp
Những người nông dân đói khát.
Cúi mình trên thửa ruộng độc canh.
Hai vụ chiêm, mùa nước sũng bàn chân
Đất dầm, cơm nắng
Bờ cao, thấp… bàn tay vào ngăn chặn?
Nước rửa trôi màu mỡ dần mòn
Lúa gặt về đầy một nhà rơm.

Hạt thóc nhẹ tênh như bụng ngụm gầy, lép
Rồi sưu, thuế, tức, lô cho cả bầy ăn hiếp
Người bỏ lên rừng phát rẫy làm nương
Mặc cho nước lũ lối mòn
Đồi lại đồi năm trơ sỏi cát.

Kể sao hết cuộc đời xơ xác
Những bà già dũi tép khắp đồng chiêm
Những chão thừng vặn cả cột xoan nghiêng.
Những cô gái tha phương cây mướn.
Đời phụ nữ như cá rô khô dưới ruộng
Rạ ngắn lợp nhà chả kín kèo tre.

Ai có nghe tiếng than miền đất bạc?
Đất phụ người? hay người phụ đất?
Những buổi chiều mờ xám sương dông
Mưa miên man gió hú khắp đồng
Từng đoàn rách rưới
Bị nát đeo vai gánh con lủi thủi.
Đất chẳng nuôi người, người đành bỏ đất ra đi
Ai có nghe… nghẹn ngào tiếng đất!

*

Tiếng Đất – Nỗi Đau Của Quê Hương Trong Mỗi Tấc Đất Cằn

Có một tiếng gọi âm thầm, len lỏi giữa những bờ tre xao xác, giữa những cánh đồng hoang vu, giữa những đôi bàn chân lấm bùn mà không đủ sức níu giữ người ở lại. Đó là tiếng đất – tiếng kêu than từ ruộng đồng bạc màu, từ những cánh đồi trơ sỏi đá, từ những kiếp người gầy guộc đang vật lộn với cái đói, cái khổ. Trong bài thơ Tiếng đất, nhà thơ Anh Thơ không chỉ viết về số phận của đất, mà còn khắc họa nỗi đau của con người gắn bó với đất, của cả một dân tộc từng chịu cảnh lầm than, mất nước.

Tiếng đất than khóc – Những tháng ngày nhọc nhằn

“Có ai nghe tiếng đất âm thầm?
Đã một trăm năm từ ngày mất nước…”

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi đầy ám ảnh. Đất đã gắn bó với con người từ ngàn đời, đã từng màu mỡ nuôi sống bao thế hệ, vậy mà giờ đây, đất cằn khô, bạc màu, hoang hóa. Đất không còn là miền xanh tươi của lúa, của hoa, mà trở thành “miền đất trắng”, nơi những thân phận con người phải cúi mình trong cơ cực.

Hình ảnh những cánh đồng “chó chạy hở đuôi”, những “cấy đứng, gặt ngồi đất không lấm cẳng”, cho thấy sự nghèo nàn, cằn cỗi của ruộng đồng. Không còn là đất mẹ trù phú, đất giờ đây trở thành chứng nhân của khổ đau, của đói nghèo, của những tháng ngày nhọc nhằn.

Đất – từ xanh tươi đến bạc màu

“Từ năm mươi vạn năm xưa
Đất ta sinh từ lòng đá…”

Nhà thơ dẫn người đọc trở về cội nguồn của đất – từ những ngày đầu tiên hình thành qua nắng, mưa, qua bão lũ. Đất đã từng trù phú, từng được phù sa bồi đắp, từng ôm lấy những cánh đồng xanh mát. Nhưng rồi, dưới ách đô hộ, đất bị bóc lột như chính những con người cày cấy trên nó.

“Trăm năm sau đã là đất bạc màu
Ôi! ai biết nỗi thầm đau?”

Lòng đất cũng như lòng người, khi bị bào mòn đến cạn kiệt thì chẳng thể nào trổ hoa kết trái. Giặc đến, ruộng đất bị cưỡng chiếm, những người nông dân khốn cùng phải “cúi mình trên thửa ruộng độc canh”. Chẳng còn mùa màng tươi tốt, chỉ còn những vụ lúa khô cằn, những hạt thóc “nhẹ tênh như bụng ngụm gầy, lép”. Đất không thể nuôi sống người, vì con người đã bị dồn đến bước đường cùng.

Nỗi đau của con người – Tiếng đất nghẹn ngào

Không chỉ đất bạc màu, mà cả những phận đời gắn bó với đất cũng xơ xác đến tột cùng.

“Những bà già dũi tép khắp đồng chiêm
Những chão thừng vặn cả cột xoan nghiêng.
Những cô gái tha phương cây mướn.
Đời phụ nữ như cá rô khô dưới ruộng…”

Những hình ảnh chân thực ấy như bóp nghẹt lòng người. Đó là những bà mẹ già còm cõi, những người phụ nữ tha phương cầu thực, những mái nhà tranh rách nát không đủ che mưa nắng. Những con người sống nhờ đất, nhưng khi đất cạn kiệt thì họ cũng chẳng còn nơi nương tựa.

Và rồi, khi đất chẳng thể nào nuôi nổi người, người đành phải bỏ đất mà đi.

“Đất chẳng nuôi người, người đành bỏ đất ra đi
Ai có nghe… nghẹn ngào tiếng đất!”

Câu kết của bài thơ là một tiếng khóc bi thương. Đất không hề phụ con người, nhưng chính những thế lực tàn ác đã đẩy cả người và đất vào cảnh khốn cùng. Sự ra đi của con người không chỉ là nỗi đau của riêng họ, mà còn là nỗi đau của đất mẹ – nơi từng ôm ấp họ suốt bao đời.

Thông điệp từ bài thơ

Bài thơ Tiếng đất của Anh Thơ không chỉ là một tiếng than về số phận của đất, mà còn là lời tố cáo mạnh mẽ đối với chế độ thực dân phong kiến đã bóc lột cả đất lẫn người. Đồng thời, bài thơ cũng nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó không thể tách rời giữa con người và thiên nhiên. Đất có màu mỡ thì con người ấm no, đất cằn khô thì con người đói khát.

Nhưng trên hết, bài thơ còn là một tiếng gọi – tiếng gọi đấu tranh, tiếng gọi của khát vọng đổi thay. Nếu con người biết bảo vệ đất, biết giữ gìn và khai phá đúng cách, thì đất sẽ lại hồi sinh, sẽ lại xanh tươi như thuở ban đầu.

Bởi lẽ, đất không bao giờ chết – chỉ có con người mới quyết định được số phận của đất.

*

Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ

Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.

Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.

Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.

Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:

“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *