Từ quê xưa ánh điện sáng quê này
Kính tặng đồng chí, đồng bào xã Yên Thạch, huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái đã nhường quê cũ làm hồ thuỷ điện Thác Bà lên Bảo Ái xây dựng quê mới, Kỷ niệm ngày đoàn nhà văn Trung ương lên thăm đã nói chuyện với bà con qua điện đài của đồng chí đội trưởng.
Chúng tôi chào bà con Bảo Ái
Trước diện dài người dội trưởng chỉ huy
Tiếng tôi qua đồi sở rừng chè
Lên miếng ruộng bật thang mới vỡ
Vượt tảng đá ai dào, lăn lóc, bò.
Qua lùm nứa xưa bùn thụt cả trâu cày.
Nay đã thành thửa lúa xanh mây
Để tới bà con, mang lời chào hạnh phúc.
Hỡi những mẹ già đầu bạc
Chóng gậy lên đường, tạm biệt quê hương
Người vợ đảm, hiền một nách mấy con
Những đảng viên già xung phong đi trước
Chiếc lán đầu tiên trên rừng đất thụt
Quyết vỡ hoang thành ruộng cấy ba mùa
Những con trai đánh góc, bốc trà.
Những con gái, đạp bùn thay cuốc.
Măng chấm muối làm canh, chiều rét ngọt
Nước uống quên cơm, trưa nắng đổ chân mày
Mang nỗi nhớ quê xưa, xây dựng quê này
Con sông chảy cũng theo vào giấc ngủ.
Mười năm!… mười năm!… không ai quên làng cũ
Dưới mái nhà sàn rủ bóng cam xưa.
Qua chín đầu tiên đặt trước bàn thờ.
Mang tính nghĩa đất phù sa thắm đỏ.
Hái lá trầu cay, chòi buồng cau xoè gió
Mắt mẹ già sống lại thuở thanh xuân.
Ao mới đào lên, dưới máng nước lần
Rào rạt vịt đùa sóng nước.
Trống nghỉ làm đồng, người về hừng lửa bếp
Cuộc sống đang lén như rừng sở búp hồng.
Ngoài xa kia mặt hồ lớn, dang dâng.
Máy thủy diện sắp về reo chắn thác.
Đã in sâu đáy nước
Hình ảnh người ra đi
Hình ảnh một làng quê…
Một làng quê trên bờ sông Chảy.
Ruộng đất phì nhiêu, phù sa thắm bãi.
Những mía cam chín ngọt quanh làng.
Bắp cải tròn cuộn gió mùa đông.
Những trái ngô vàng, chuối vườn quả nặng.
Những tôm cá xúc giữa đồng trưa nắng.
Bát canh đậm, chén nước đường thơm.
Làng xóm quây quần, hợp tác yêu thương.
Với tất cả bao nhiêu kỷ niệm
Nhưng tất cả đã nhường hồ thủy diện
Tất cả đã ra đi…
Cùng đến nơi này, xây dựng, làng quê.
Hỡi bà con Bảo Ái
Chưa thấy mặt người, nhớ dài truyền tiếng nói
Mai đây rừng sở vươn cao
Điện tràn sâu khắp lũng, đuổi mây vào
Chúng tôi lại về thăm quê mới
Từ quê xưa, ánh điện sáng quê này!
Bảo Ái, tháng 7-1971
*
Ánh Sáng Từ Quê Xưa Tỏa Rạng Quê Nay
Có những cuộc chia ly không chỉ là một chuyến đi mà là sự dứt bỏ cả một vùng ký ức. Có những sự hi sinh không ồn ào nhưng làm rạng rỡ cả tương lai. Bài thơ Từ quê xưa ánh điện sáng quê này của nhà thơ Anh Thơ chính là một khúc tráng ca đầy cảm xúc về những con người đã rời bỏ quê cũ để dựng xây quê mới, nhường mảnh đất thân thương cho công trình thủy điện Thác Bà – một trong những biểu tượng của công cuộc kiến thiết đất nước.
Lời chào từ miền đất mới
Mở đầu bài thơ là hình ảnh đoàn nhà văn đến thăm bà con xã Yên Thạch, huyện Yên Bình, Yên Bái – những người đã nhường quê hương cũ để khai phá miền đất mới Bảo Ái. Lời chào ấy không chỉ vang vọng qua thiết bị điện đài mà còn đi qua những nương chè, những ruộng bậc thang mới khai hoang, len lỏi vào từng mái nhà, từng nếp nghĩ của những con người đang làm nên lịch sử:
“Tiếng tôi qua đồi sở rừng chè
Lên miếng ruộng bậc thang mới vỡ
Vượt tảng đá ai dào, lăn lóc, bò.”
Câu thơ mở ra một vùng đất hoang sơ nhưng tràn đầy hy vọng, nơi những bàn tay rắn rỏi của người dân đang biến từng tấc đất thành quê hương.
Những con người bước qua thử thách
Bài thơ không chỉ kể về một cuộc di dời mà còn là lời tôn vinh những con người dám đương đầu với khó khăn để dựng xây cuộc sống mới. Đó là những mẹ già rời xa mái nhà sàn thân thuộc, là những người vợ tảo tần mang theo đàn con thơ, là những đảng viên tiên phong đi trước, những chàng trai, cô gái không quản gian lao, nhọc nhằn:
“Những con trai đánh góc, bốc trà.
Những con gái, đạp bùn thay cuốc.”
Họ không chỉ đối diện với cảnh rừng thiêng nước độc mà còn mang theo nỗi nhớ khôn nguôi về quê cũ. Nhưng nỗi nhớ ấy không làm họ chùn bước, mà trở thành động lực để kiến thiết, để làm cho vùng đất mới thêm xanh, thêm vững chãi.
Quê hương cũ – Dấu ấn không phai
Dù đã rời đi, nhưng trong lòng mỗi người, quê hương cũ vẫn sống mãi. Nhà thơ Anh Thơ đã khắc họa hình ảnh một miền quê trù phú, yên bình mà ai cũng nhớ thương:
“Một làng quê trên bờ sông Chảy.
Ruộng đất phì nhiêu, phù sa thắm bãi.
Những mía cam chín ngọt quanh làng.
Bắp cải tròn cuộn gió mùa đông.”
Những hình ảnh ấy như một thước phim quay chậm, tái hiện những tháng ngày êm đềm, nơi có bát canh đậm đà, có chén nước đường thơm, có tình làng nghĩa xóm quây quần. Nhưng rồi, tất cả đã lùi lại phía sau để nhường chỗ cho công trình thủy điện vĩ đại.
Không ai quên quê cũ, nhưng tất cả đã chọn ra đi. Không phải vì ép buộc, mà vì một niềm tin lớn lao: “Tất cả đã nhường hồ thủy điện / Tất cả đã ra đi…”
Ánh sáng tương lai từ sự hi sinh
Điều đáng quý nhất mà bài thơ truyền tải không chỉ là nỗi nhớ mà còn là niềm tự hào về những gì đã đạt được. Chính sự hi sinh ấy đã làm nên một diện mạo mới cho quê hương, nơi mà ánh sáng của công trình thủy điện sẽ tỏa rạng:
“Mai đây rừng sở vươn cao
Điện tràn sâu khắp lũng, đuổi mây vào
Chúng tôi lại về thăm quê mới
Từ quê xưa, ánh điện sáng quê này!”
Từ một miền đất hoang sơ, những bàn tay lao động đã biến nó thành một vùng quê trù phú, nơi ánh sáng điện không chỉ xua tan bóng tối mà còn thắp lên niềm tin về tương lai.
Thông điệp của bài thơ
Từ quê xưa ánh điện sáng quê này không chỉ là một bài thơ về sự di dời mà còn là một bản hùng ca về những con người dám đánh đổi để kiến thiết. Nhà thơ Anh Thơ đã dùng những vần thơ chan chứa cảm xúc để khắc họa một thế hệ dũng cảm, biết hi sinh cái riêng để làm nên cái chung, biết nhớ thương nhưng cũng biết vươn lên.
Quê hương không chỉ là nơi ta sinh ra mà còn là nơi ta góp công dựng xây. Và những con người Yên Thạch năm xưa, dù rời xa bến nước gốc đa, nhưng chính họ đã làm nên một miền quê mới rạng rỡ, nơi ánh điện bừng sáng – như ánh sáng của niềm tin, của sự hi sinh cao đẹp.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.