Vòng xe tỉnh uỷ
Tặng đ/c Đức và các đồng chí Tỉnh uỷ Lạng Sơn
Cuộc họp vừa xong, xe tỉnh ủy
Chia nhau tới tấp về địa phương
Lúa chiêm teo, quắt dầm sương muối
Mưa đã cày sâu những chặng đường
Ôi! cài gió mùa đông bắc rét.
Kéo dài dằng đặc cả đông xuân.
Tầng tầng đồi trọc không ngăn gió
Tiếng rít hung hăng tựa hổ gầm.
Ai biết nỗi lo, lòng tỉnh ủy:
Lúa chiêm chết rét thay lúa xuân.
Đêm đêm hỏa tốc về tin điện
Mạ đến kỳ gieo thẳng, vững chân.
Hôm nay nắng hửng, rừng xanh phớt
Xe một vòng lên dốc cuốn mây.
Đá, cát công trường đâu cũng rộn.
Nước chờ về ruộng, núi chờ cây.
Giấy ký trên xe từng nhật lệnh:
Xi măng cho đập, phân trồng rừng
Mở thêm đường mới vào thôn bản
Thả cá lên hồ cao mênh mông.
Ai biết nói vui lòng tỉnh ủy:
– Năm nay sinh nhật Bác Hồ ta
Cùng ngày thủy điện dòng cao thế
Ánh sáng bừng lên khắp mọi nhà.
Qua khoảng ruộng khuya ôn cuộc họp
Đêm thầm, quyết nghị máy bay rơi.
Nhìn con mương đá bò ven núi
Yêu những bàn tay gái xẻ đồi.
Còn dãy đá vôi từng hút nước
Cả vùng ruộng bạn, lúa nhường ngô
Còn cơn gió bấc băng đồi trọc.
Lẫn tiếng phi cơ rú lượn lờ.
Gian khổ còn nhiều, còn chiến đấu!
Đá kia rồi sẽ có lò tôi.
Gió dù tác quái ngàn năm trước
Có những cây lên chắn cả trời.
Tỉnh ủy hay anh là tạo hóa ?
Đổi thay cuộc sống, ươm màu xanh.
Tôi nghe sông núi lại ca ngợi
Vì anh là Đảng của nhân dân.
Lạng Sơn, mùa xuân 1968
*
Vòng Quay Của Niềm Tin Và Hy Vọng
Giữa những ngày đông giá buốt, giữa những chặng đường hun hút mưa rét và những đồi trọc trơ trọi gió mùa, hình ảnh những vòng xe tỉnh ủy Lạng Sơn vẫn lăn bánh không ngừng. Bài thơ Vòng xe tỉnh ủy của nhà thơ Anh Thơ không chỉ là một bức tranh hiện thực về những khó khăn của miền núi phía Bắc, mà còn là một bài ca đầy tự hào về những con người đang gánh vác trọng trách lớn lao – những người biến gian khó thành động lực để dựng xây cuộc sống mới.
Những vòng xe lăn trên gian khó
Cuộc họp vừa xong, không một giây ngơi nghỉ, những vòng xe lại tỏa đi khắp các địa phương. Nhưng đằng sau sự hối hả ấy là cả một nỗi lo:
“Lúa chiêm teo, quắt dầm sương muối
Mưa đã cày sâu những chặng đường”
Thiên nhiên khắc nghiệt không chỉ là những cơn gió mùa đông bắc rét cắt da cắt thịt, mà còn là những tầng đồi trọc không một bóng cây, nơi gió rít lên như tiếng hổ gầm. Chính giữa hoàn cảnh đó, những người cán bộ tỉnh ủy vẫn kiên định, vẫn lo từng vụ lúa, từng mảnh ruộng, từng con đường.
Tấm lòng của Đảng vì dân
Không chỉ là những chuyến xe rong ruổi trên những cung đường mưa gió, những cán bộ tỉnh ủy còn là những người bám sát từng ngọn núi, từng con mương, từng hạt lúa:
“Ai biết nỗi lo, lòng tỉnh ủy:
Lúa chiêm chết rét thay lúa xuân.
Đêm đêm hỏa tốc về tin điện
Mạ đến kỳ gieo thẳng, vững chân.”
Không có sự quan liêu, xa cách, mà là những quyết sách kịp thời, những mệnh lệnh thiết thực được ký ngay trên những chuyến xe đang lăn bánh:
“Giấy ký trên xe từng nhật lệnh:
Xi măng cho đập, phân trồng rừng.
Mở thêm đường mới vào thôn bản,
Thả cá lên hồ cao mênh mông.”
Những quyết định ấy không phải là những con chữ khô khan trên giấy tờ, mà là sự sống, là hơi thở của những người dân nơi núi rừng. Đó là ánh sáng điện bừng lên trong những bản làng heo hút, là con mương dẫn nước về ruộng đồng, là con đường mở lối cho tương lai.
Niềm tin vào sự đổi thay
Không chỉ đối diện với thiên nhiên khắc nghiệt, những con người ấy còn đang đồng thời chiến đấu với bom đạn chiến tranh. Những đêm họp bàn không chỉ bàn về lúa, về ngô, mà còn là những quyết sách giữ gìn bầu trời bình yên:
“Qua khoảng ruộng khuya ôn cuộc họp
Đêm thầm, quyết nghị máy bay rơi.”
Nhưng dù có bao gian khó, niềm tin vẫn không hề lay chuyển. Nhà thơ Anh Thơ đã khắc họa một sự đối lập đầy mạnh mẽ: gió bấc vẫn lạnh, đá vôi vẫn hút nước, bom đạn vẫn còn đó, nhưng rồi con người sẽ chiến thắng:
“Đá kia rồi sẽ có lò tôi.
Gió dù tác quái ngàn năm trước
Có những cây lên chắn cả trời.”
Không còn là những ngọn đồi trọc trơ trọi, mà sẽ là những cánh rừng xanh ngút ngàn, những con đường trải rộng, những bản làng sáng ánh đèn điện.
Tỉnh ủy – những người gieo mầm tương lai
Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi đầy trăn trở mà cũng rất tự hào:
“Tỉnh ủy hay anh là tạo hóa?
Đổi thay cuộc sống, ươm màu xanh.”
Có lẽ, họ không phải là những vị thần, nhưng họ chính là những người đang cầm lái con thuyền đổi thay, đưa nhân dân thoát khỏi nghèo đói, lạc hậu để bước sang một thời đại mới. Đảng không chỉ là lý tưởng xa vời, mà là những bàn tay, những vòng xe, những con người đang ngày đêm mang ánh sáng đến mọi miền quê.
Thông điệp của bài thơ
Vòng xe tỉnh ủy không chỉ là một bài thơ về những người cán bộ mà còn là một biểu tượng về tinh thần tận tụy, hết lòng vì dân. Bằng những vần thơ giản dị nhưng sâu sắc, nhà thơ Anh Thơ đã tạc nên hình ảnh những con người lặng lẽ, bền bỉ, vượt qua mọi khó khăn để mang đến sự thay đổi cho quê hương.
Những vòng xe ấy không chỉ lăn trên những con đường gập ghềnh, mà còn lăn trên hành trình của niềm tin và hy vọng – hành trình của một Đảng hết lòng vì nhân dân, của một tương lai đang bừng sáng từ chính những giọt mồ hôi và sự hi sinh lặng thầm.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.