Thế mà đã đến Tết Trùng Dương
Gió thổi mây bay suốt con đường
Suối reo chim lượn ngang sườn núi
Cùng nhau nâng chén đón ánh dương.
Tết Trùng Cửu hay Tết Trùng Dương (9/9 âm lịch) – Nguồn gốc và ý nghĩa
Tết Trùng Cửu (重九), cũng gọi là tết Trùng Dương (chữ Hán: 重九, tiếng Trung: 重阳 <重陽> (Trùng Dương)/ Chóng yáng) theo phong tục của người Trung Hoa là vào ngày 9 tháng 9 theo Âm lịch hàng năm.
365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 11 tháng 10: Phúc đức lớn nhất
Lánh xa kẻ xấu ác
Thân cận người hiền lành
Tôn kính bậc tôn kính
Là phúc đức lớn nhất.
Sống trong môi trường tốt
Được tạo tác nhân lành
Được đi trên đường chính
Là phúc đức lớn nhất.
365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 10 tháng 10: Ghi chép về kiếp người
Cơ mưu thấu rõ, mọi lo lắng đều lãng quên, khen gì lầu rồng gác phượng, nói gì đến danh lợi buộc ràng. Nhàn rỗi thời đến nơi yên tĩnh, để mặc sức rượu thơ, hát một khúc xong quay về chưa muộn, ca một điệu nhạc biển bờ mênh mông. Gặp thời được thưởng ngoạn cỏ cây, hẹn một vài bẳng hữu tri kỷ đến chốn đồng hoang đến bên bờ suối chơi cờ đàn hát theo ý, nhâm nhi chén rượu ngâm thơ; hoặc bàn về thiện nhân quả báo, luận về kim cổ hưng vong; ngắm hoa cỏ non sông, nghe chim líu lo, thổi vang sáo khèn.
365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 9 tháng 10: Điệu Thanh bình nhạc; Điệu Nam hương tử
Xuân về nơi nao?
Lặng lẽ không nối bước.
Ai biết xuân về chốn nao, hãy kéo về ở chung một chỗ.
Xuân vô tung tích người nào biết?
Trừ phi vặn hỏi chim hoàng oanh.
Ríu rít líu lo làm sao hiểu, vì gió lướt qua bụi tường vi.
365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 8 tháng 10: Lữ quán; Biệt ly cũng có thể tươi đẹp – Lâm Thanh Huyền
Rất nhiều ký ức trong cuộc sống giống như những quán trọ nhỏ. Còn con người giống như đang cưỡi một con ngựa đưa thư không ngừng nghỉ lao về phía trước, mỗi lần quay đầu lại, những sự vật trong quá khứ vĩnh viễn trở thành những quán trọ nhỏ rời bỏ bản thân mà đi. Tất cả niềm vui và nỗi buồn, tất cả mọi lắng đọng và xúc cảm mãnh liệt, thậm chí mọi thành công và thất bại đều ở trong những quán trọ nhỏ đó, khi trời về chiều, chúng ta sẽ phải vào nghỉ ở một quán trọ khác.
365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 7 tháng 10: Hai tốt
Thành công và thất bại không nằm ở phong thủy, vận mệnh, quỷ thần, điều kiện thành công nằm ở chính sự kiện toàn của chính mình. Phật giáo nói rằng: “Nhân thế nào, quả thế đó”, không trải qua cày cấy vào mùa xuân hạ, làm sao có thu hoạch vào thu đông? Cho nên, một người thành công thì phải có nguyên nhân thành công; thất bại cũng có lý do tất yếu mà thất bại, thành công hay thất bại đều nằm ở chính mình, sao không thể thận trọng chứ?
365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 6 tháng 10: Thơ Tô Mạn Thù
Tô Mạn Thù 蘇曼殊 (1884-1918) tên thật là Huyền Anh 玄瑛, tự Tử Cốc 子谷. Mạn Thù là pháp danh sau khi xuất gia. Ông người ở Hương Sơn, Quảng Đông, mẹ là người Nhật Bản. Năm 15 tuổi, Tô Mạn Thù sang Nhật lưu học, tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1903 về nước dạy học tại Tô Châu một thời gian ngắn rồi xuất gia.
365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 5 tháng 10: Bài tựa cho Lanh Đình tập
Ngẩng đầu nhìn lên vũ trụ bao la, cúi xuống trông thấy muôn loài tốt tươi. Mượn đó mà mở rộng tầm nhìn, tấm lòng bao dung, thời cũng đủ thích mắt vui tai. Thật hạnh phúc lắm thay! Phàm người gặp gỡ nhau, trong thoáng chốc đã qua hết cuộc đời. Có người giữ kín hoài bão trong lòng, chỉ cởi mở nơi kín đáo; có người gửi gắm hoài bão nơi vật mình yêu thích, rồi không còn bó buộc bởi điều gì, từ đó sống tự do thoải mái.
Bài thơ “Ô trống cuộc đời” – Sỹ Vinh
Bao nhiêu điều ước muốn
Ở trong thế giới này
Bây giờ em đã biết
Những ô trống cuộc đời
Nên điền từ hôm nay./.
365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 4 tháng 10: Đêm trăng hoa trên sông xuân
Xuân giang hoa nguyệt dạ là bài thơ trữ tình nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Nhà nghiên cứu văn học đời Thanh Vương Khải Vận khen bài thơ này là “chỉ một thiên tuyệt diệu, đủ xứng đáng là đại gia” (cô thiên hoành tuyệt, cánh vi đại gia); nhà thơ hiện đại Văn Nhất Đa thì ca ngợi rằng bài thơ này là “thơ trong thơ, đỉnh núi trên các đỉnh núi” (thi trung đích thi, đỉnh phong thượng đích đỉnh phong). Theo lời Lưu Kế Tài thì đối với người Nhật Bản hiện đại, hai bài thơ Đường được hâm mộ nhất là Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư và Trường hận ca của Bạch Cư Dị.
365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 3 tháng 10: Kệ niệm Phật; Vịnh chim én dạy Lưu tẩu
Một hôm đủ cánh đủ lông
Cành cao con đậu hướng lòng chốn xa
Rời quê hương bỏ mẹ cha
Tung bay khắp chốn xông pha tứ bề.
Không trung tiếng mẹ thảm thê
Gọi con mau chóng trở về cố hương
Nhưng con chẳng thấu tình thương
Mẹ nơi tổ vắng lệ tuôn đêm ngày.