Quay về nguồn cội chốn cố hương
Có chi huyền diệu để tán dương
An nhiên tự tại, chân như tính
Chỉ do một niệm luống sai đường.

Quay về nguồn cội chốn cố hương
Có chi huyền diệu để tán dương
An nhiên tự tại, chân như tính
Chỉ do một niệm luống sai đường.
Trong Bách niên Phật duyên tôi đã viết:
“Mẹ đưa tôi vào chốn Phật đường
Muốn tìm Phật tính bốn phương,
Nay đà tám bảy với trần thế
Hoằng pháp lợi sinh báo tình thương.”
Pháp là pháp vốn xưa không pháp
Không pháp mà cũng pháp đó đây
Ta trao không pháp buổi nay
Pháp nào pháp nấy, nào hay pháp nào.
Người nay chẳng biết trăng xưa
Trăng nay rọi chiếu người xưa bao ngày
Nhân gian lắm chuyện đổi thay
Xưa nay chung ngắm trăng này ấy thôi.
Ba là “vô sinh pháp nhẫn”, đây là sức mạnh đủ để chặt bỏ được phiền não, là cảnh giới tối cao của nhẫn mà không nhẫn. Hết thảy các pháp vốn không sinh không diệt, là một thế giới bình đẳng tươi đẹp. Tôi có thể tùy duyên, tùy nơi giác ngộ được triết lý vô sinh, bất chấp nhẫn hay không nhẫn, đó chính là “vô sinh pháp nhẫn”
Năm núi có còn núi cao hơn
Ấy chính cõi tiên chốn Hoàng Sơn
Trượng phu ý chí ra biển lớn
Phung phí làm chi chốn tầm thường.
Một chum rượu một khúc từ mới viết
Tiết trời như năm ngoái chẳng đổi thay
Đình đài xưa mặt trời chưa trở lại
Hoa rụng rơi theo tháng năm vần xoay.
Thời gian chính là sự sống.
Vô cớ phí hoài thời gian của người khác, kỳ thực chẳng khác gì cầu tài mà hại sự sống.
Tâm phải như cái cân, lúc cân vật, vật đung đưa qua lại nhưng cân thì không;
Lúc bỏ vật ra, cân vẫn lơ lửng giữa không trung, thật tự tại biết bao! Thu lại một dục niệm thì mang đến vạn điều thiện; Buông thả một dục niệm thì trăm tà ác ập đến.
Hàn thực đến cũng chẳng hay
Quạ kêu bất chợt lòng này xót thương.
Hiếu trung ai thấu tỏ tường
Buồn đau thống khổ tha hương chẳng về.
Nếu muốn đạt đến cảnh giới tâm không động thì chúng ta không nên: Mang phiền não lên giường; Để thù hận đến ngày mai,
Tạo ra lo lắng cho người khác; Giữ tức giận ở trong lòng.
Kiêng ăn nhiều, vì ăn nhiều tổn hại tinh thần. Kiêng tham sắc, vì tham sắc sẽ diệt tinh thần. Kiêng ăn vị nồng, vì vị nồng làm mất tri giác. Kiêng ăn no, vì ăn no tất mệt mỏi tinh thần.
Người có đức hạnh dù sức khỏe như trâu cũng chẳng tranh sức với trâu; Dù chạy nhanh như ngựa cũng chẳng đua nhanh chậm với ngựa; Dù trí tuệ như sĩ phu, cũng chẳng đọ cao thấp với sĩ phu; Người có đức hạnh rộng lớn xử thế bằng thái độ khiêm tốn thì sẽ được vẻ vang.
Kinh Phật hơn chín ngàn cuốn, kỳ thực chúng ta có thể tuân theo tám chữ chân ngôn “Không làm điều ác, chỉ làm điều lành” thì có thể tiêu tan oan nạn, an khang như ý.
“…Giang Nam dạo khắp đó đây
Núi xanh kia tỏ lòng này mà thôi
Bạn bè thủa ấy đâu rồi?
Trung niên mấy độ bồi hồi biệt ly
Ván cờ thay thế đôi thì
Tàn binh máu chảy khác gì sông sâu…”
Kẻ phàm phu thân xác chịu khổ thì đầu óc đau khổ, hoảng loạn, khiến cho nội tâm cũng đau khổ theo; còn bậc Thánh hiền khi thân xác chịu khổ nhưng không ưu sầu phiền não, cho nên chỉ có thân xác chịu khổ, còn tâm không chịu khổ. Sự khác biệt chính nằm ở chỗ kẻ phàm phu bị nhiễm trước bởi năm dục, nên tạo ra ba độc tham sân si, còn bậc Thánh hiền thì không.
Theo ghi chép của “Đường thư – Hiếu hữu truyện tự” thì gia đình Trương Công Nghệ chín đời cùng chung sống với nhau, Đường Cao Tông hỏi về gia phong thì đương thời Trương Công Nghệ đã 88 tuổi mới viết 100 chữ nhẫn trình lên, đồng thời giảng giải nội dung của “bách nhẫn”, Đường Cao Tông vô cùng cảm động, ban cho ông lụa là, đồng thời đích thân đề tặng “Bách nhẫn nghĩa môn” để biểu dương.
Cả đời tôi xem hoằng dương “Phật giáo nhân gian” là nhiệm vụ, lời Phật dạy, thứ con người cần, điều tịnh hóa, điều thiện mỹ, v.v. phàm là giáo pháp tăng tiến hạnh phúc nhân sinh thì đều là “Phật giáo nhân gian”.
Lâm Hải Âm (林海音, 1918–2001) là một nữ nhà văn nổi tiếng người Đài Loan, gốc Bắc Kinh, Trung Quốc. Tên thật của bà là Cheng Linhai (Thành Lâm Hải). Lâm Hải Âm được biết đến như một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học hiện đại Đài Loan, với các tác phẩm giàu tính nhân văn và sâu sắc về cuộc sống, đặc biệt là về những trải nghiệm cá nhân trong bối cảnh lịch sử và văn hóa khác biệt.
Thái Căn Đàm tác phẩm xử thế kinh điển của tác giả Hồng Ứng Minh, một học giả thời Minh – Trung Quốc. “Thái Căn Đàm” có ý nghĩa là “bàn về rễ rau,” và tác giả chọn tên này để tôn vinh ý nghĩa của việc rèn luyện và trải qua những gian khổ trong cuộc sống.
Thuốc này kiêng kỵ “lời nói chua chát, hành động xấu xa, lén lén lút lút lợi mình hại người, trong bụng mưu tính, nụ cười nham hiểm, như rắn hai đầu, như đất bằng dậy sóng”, bảy việc kể trên phải tránh xa. Mười vị thuốc trên, nếu dùng hết thì được phúc lớn trường thọ, thành Phật thành tổ.