Bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” – Bà huyện Thanh Quan

Chiều hôm nhớ nhà

Bà huyện Thanh Quan

Vàng toả non tây, bóng ác tà,
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.
Ngàn mai lác đác, chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà.
Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa.
Lòng quê một bước nhường ngao ngán,
Mấy kẻ tình chung có thấu là?


(Tiêu đề trong Văn đàn bảo giám chép là Nhớ nhà)

*

“Nỗi Lòng Nhớ Quê Trong Buổi Chiều Hôm Qua Hồn Thơ Bà Huyện Thanh Quan”

Bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan là một bức tranh thơ nhuốm màu tâm trạng, nơi cảnh vật và lòng người hòa quyện trong nỗi nhớ nhà da diết. Những vần thơ như tiếng lòng thổn thức, vừa khắc họa vẻ đẹp của cảnh chiều hôm nơi đất khách, vừa bày tỏ nỗi niềm thầm kín của người xa quê. Qua bài thơ, ta cảm nhận được tài năng miêu tả tinh tế của Bà Huyện Thanh Quan và những suy tư sâu sắc về tình quê hương.

Cảnh chiều tà – bức tranh thiên nhiên đượm buồn

Mở đầu bài thơ, Bà Huyện Thanh Quan vẽ nên một khung cảnh chiều hôm nơi đất khách:
“Vàng toả non tây, bóng ác tà,
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.”

Hình ảnh “vàng tỏa non tây” và “bóng ác tà” gợi lên sắc vàng rực rỡ nhưng đầy u hoài của buổi chiều tà. Ánh nắng như đang dần khuất, nhường chỗ cho bóng tối, gợi cảm giác chia ly và luyến tiếc. Cỏ cây hiện lên với sự mềm mại, tĩnh lặng, như những sợi tơ lòng thầm lặng lay động trong không gian thoáng buồn.

Câu thơ “tuyết phun hoa” là một hình ảnh đẹp và đầy sáng tạo. Những bông hoa trắng nhỏ, mong manh, được ví như tuyết rơi, làm cho cảnh vật thêm phần tinh khôi nhưng lại mang nét buồn vời vợi, như những tâm sự giăng đầy.

Cánh chim và dặm liễu – biểu tượng của nỗi nhớ quê

Hai câu thực tiếp tục khắc họa cảnh vật chiều hôm với những hình ảnh gợi nhớ quê nhà:
“Ngàn mai lác đác, chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà.”

Hình ảnh “chim về tổ” là biểu tượng của sự đoàn tụ, khiến người lữ khách thêm chạnh lòng khi xa quê. Trong khi đó, “dặm liễu” – con đường dài được tô điểm bởi hàng liễu xanh, lại gợi lên sự mơ hồ, xa xôi của hành trình về nhà, như một nỗi buồn kéo dài mãi không dứt.

Câu thơ “khách nhớ nhà” thể hiện rõ tâm trạng của tác giả. Nỗi nhớ quê hương không chỉ là một cảm giác thoáng qua, mà là một nỗi niềm sâu đậm, đeo đẳng trong lòng người xa xứ.

Những thanh âm vang vọng – sự cô đơn nơi đất khách

Hai câu luận đưa người đọc đến với không gian rộng lớn hơn, nơi những âm thanh và hình ảnh sống động khắc sâu thêm cảm giác lạc lõng:
“Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa.”

Tiếng còi mục đồng vọng lên trong không gian “miền khoáng dã” – vùng đất hoang sơ, xa lạ, làm nổi bật sự cô quạnh của người lữ khách. Hình ảnh “chài ngư tung gió” gợi sự mạnh mẽ, nhịp sống thường nhật của ngư dân, nhưng chính sự tất bật ấy càng làm tác giả cảm nhận rõ sự lẻ loi của mình giữa dòng đời.

Nỗi lòng nhớ quê và sự cô đơn khôn tả

Hai câu kết của bài thơ đúc kết toàn bộ nỗi niềm của tác giả:
“Lòng quê một bước nhường ngao ngán,
Mấy kẻ tình chung có thấu là?”

“Lòng quê” là nỗi nhớ nhà da diết, mãnh liệt, khiến tác giả cảm thấy mỗi bước đi nơi đất khách đều nặng nề, mỏi mệt. Câu hỏi tu từ ở cuối bài thơ – “Mấy kẻ tình chung có thấu là?” – như một lời tự vấn, một tiếng lòng thầm kín gửi đến những ai có cùng tâm trạng xa quê. Đó không chỉ là sự cô đơn của cá nhân, mà còn là nỗi lòng chung của những con người phải rời xa quê hương, gia đình và những điều thân thuộc.

Thông điệp sâu sắc của bài thơ

“Chiều hôm nhớ nhà” không chỉ là bài thơ về nỗi nhớ quê, mà còn là bức tranh tâm trạng của những người phải xa cách nơi chôn nhau cắt rốn. Qua từng hình ảnh, từng câu chữ, Bà Huyện Thanh Quan nhắc nhở chúng ta về giá trị thiêng liêng của quê hương – nơi chứa đựng những kỷ niệm, tình cảm sâu đậm mà dù đi đâu, làm gì, con người cũng không thể quên.

Bài thơ cũng là một lời đồng cảm với những ai đang sống trong hoàn cảnh lữ thứ. Trong sự mênh mang của đất trời và nỗi cô đơn nơi xứ người, tình quê hương luôn là nguồn sức mạnh tinh thần giúp con người vượt qua khó khăn, thử thách.

Lời kết

“Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm giàu cảm xúc và hình tượng, vừa tả cảnh vừa gửi gắm tâm tình. Qua bài thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được nỗi nhớ quê hương tha thiết của tác giả mà còn thấm thía hơn giá trị của quê hương trong cuộc đời mỗi con người.

Với tài năng thi ca xuất sắc, Bà Huyện Thanh Quan đã để lại cho đời một bài thơ đậm chất nhân văn, giúp chúng ta hiểu rằng: dù cuộc sống có đưa ta đi xa đến đâu, quê hương vẫn mãi là nơi trở về trong sâu thẳm trái tim.

*

Bà huyện Thanh Quan – Tài năng thi ca và tâm hồn nữ nhi vang vọng trong lịch sử văn học Việt Nam

Bà Huyện Thanh Quan (1805–1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một trong những nữ thi nhân hiếm hoi để lại dấu ấn sâu sắc trong nền văn học Việt Nam thời cận đại. Sinh ra tại phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận – một vùng đất bên Hồ Tây nên thơ, bà mang trong mình sự nhạy cảm tinh tế trước thiên nhiên và thời cuộc. Những gì thuộc về cuộc đời, tài năng và sự nghiệp của bà, dù ít ỏi, nhưng lại lan tỏa giá trị lâu dài, ghi dấu ấn khó phai trong lòng hậu thế.

Từ gốc rễ trí tuệ đến hành trình làm vợ, làm quan phu nhân

Nguyễn Thị Hinh sinh trưởng trong một gia đình nho học danh giá. Cha bà, Nguyễn Lý, là một nhà khoa bảng xuất sắc, đỗ Thủ khoa dưới triều vua Lê Hiển Tông. Được học trò nổi tiếng của cụ là Phạm Quý Thích trực tiếp dạy dỗ, bà đã sớm bộc lộ tư chất thông minh và tình yêu đặc biệt dành cho văn chương.

Là vợ của ông Lưu Nghị – một vị quan huyện tài hoa và đức độ, bà trở thành “Bà Huyện Thanh Quan” khi ông làm tri huyện Thanh Quan (nay thuộc Thái Bình). Dẫu vậy, cuộc đời bà không tránh khỏi những bất hạnh. Ông Lưu Nghị mất sớm ở tuổi 43, để lại bà cùng bốn người con trong cảnh cô quạnh. Sau sự ra đi của chồng, bà từ bỏ chốn quan trường và sống cuộc đời ẩn dật bên Hồ Tây, giữ trọn lòng thủy chung, vượt qua nỗi đau bằng tâm hồn thanh tao và sáng tác thi ca.

Một tâm hồn thơ trác việt

Sự nghiệp thơ ca của Bà Huyện Thanh Quan tuy để lại rất ít tác phẩm, nhưng mỗi bài thơ đều là viên ngọc quý, kết tinh từ tài năng và chiều sâu tư tưởng. Sáng tác của bà chủ yếu được viết bằng chữ Nôm, với thể thơ Đường luật trang nghiêm, chuẩn mực. Trong thơ bà, cảm xúc hoài cổ, thương nước, nhớ nhà và nỗi buồn sâu lắng trước thế sự được thể hiện một cách tinh tế qua hình ảnh thiên nhiên u nhã mà thấm đượm tâm trạng.

Các tác phẩm như Qua đèo Ngang, Thăng Long hoài cổ, Chiều hôm nhớ nhà… không chỉ bộc lộ vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên mà còn phản chiếu tấm lòng yêu nước thương dân, nỗi niềm trăn trở trước sự suy vi của thời cuộc.

“Qua đèo Ngang”, bài thơ nổi tiếng nhất của bà, là đỉnh cao của nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh thơ, lột tả sâu sắc tâm trạng cô đơn của một nữ thi sĩ giữa cảnh đất trời bao la mà lòng lại quặn thắt nỗi nhớ nước, nhớ nhà:
“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Người phụ nữ tài hoa giữa thời thế biến động

Dù sống trong thời kỳ Nho giáo khắt khe, Bà Huyện Thanh Quan không chỉ nổi bật bởi tài năng thi ca mà còn bởi vai trò là một nhà giáo dục. Dưới triều vua Minh Mạng, bà được mời vào cung làm Cung trung giáo tập, dạy học cho các công chúa và cung phi. Vị trí này không chỉ khẳng định học vấn uyên thâm mà còn là minh chứng cho tài đức và phẩm chất của bà.

Tuy nhiên, cuộc đời của bà cũng là một chuỗi những mất mát và bi kịch. Sau khi chồng qua đời, bà sống trong cảnh góa bụa, lặng lẽ chăm sóc con cái và giữ gìn phẩm giá. Cuộc đời bà khép lại ở tuổi 43, nhưng hình ảnh người nữ thi sĩ tài hoa vẫn sống mãi trong lòng người đọc qua từng câu chữ.

Di sản văn học vượt thời gian

Bà Huyện Thanh Quan đã để lại cho văn học Việt Nam những áng thơ bất hủ. Tác phẩm của bà không chỉ là sự kết hợp tuyệt vời giữa ngôn ngữ trang nhã và nghệ thuật tạo hình, mà còn mang giá trị nhân văn sâu sắc.

Thơ của bà gợi lên nỗi buồn man mác, đầy nhân bản, đồng thời khơi dậy lòng yêu nước, yêu quê hương. Chính sự hòa quyện giữa tình yêu thiên nhiên, lòng hoài cổ và khát vọng tự do đã khiến tên tuổi của bà vượt lên trên mọi khuôn khổ thời gian, trở thành một biểu tượng đẹp trong lịch sử văn học Việt Nam.

Lời kết

Dù cuộc đời ngắn ngủi và tác phẩm không nhiều, nhưng Bà Huyện Thanh Quan đã để lại dấu ấn lớn trong văn hóa và văn học nước nhà. Bà không chỉ là một nữ thi nhân tài năng mà còn là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam – thanh tao, sâu sắc và đầy nghị lực. Những vần thơ của bà, qua bao thế kỷ, vẫn vang vọng như tiếng nói từ cõi lòng của một tâm hồn yêu nước, yêu quê hương, và luôn khắc khoải với nỗi niềm nhân thế. Bà Huyện Thanh Quan mãi mãi là một ngôi sao sáng trong bầu trời văn học Việt Nam, nơi vẻ đẹp ngôn từ hòa quyện với tinh thần dân tộc.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *