Bài thơ “Hầu giời” – Tản Đà

Hầu giời

Tản Đà

(Điệu Thu thuỷ)

Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng
Thật hồn! thật phách! thật thân thể!
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!
Nguyên lúc canh ba, nằm một mình
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh
Nằm buồn ngồi dậy, đun nước uống
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn
Chơi văn ngâm chán, lại chơi giăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên giời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:
“Giời nghe hạ giới ai ngâm nga
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà
Làm Giời mất ngủ, Giời đương mắng
Có hay, lên đọc Giời nghe qua”
Ước mãi, bây giờ mới gặp tiên!
Người tiên nghe tiếng lại như quen!
Văn chương nào có hay cho lắm
Giời đã sai gọi thời phải lên
Theo hai cô tiên lên đường mây
Vù vù không cánh mà như bay
Cửa son, đỏ trói, oai rực rỡ
Thiên môn đế khuyết như là đây!
Vào trông thấy Giời, xụp xuống lạy
Giời sai tiên nữ dắt lôi dậy
Ghế bành như tuyết, vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy
Tiên đồng pha nước, uống vừa xong
Bỗng thấy chư tiên đến thật đông
Chung quay bầy ghế ngồi la liệt
Tiên bà, Tiên cô cùng Tiên ông
Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc
Giời sai pha nước để nhấp giọng
Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe
“Dạ bẩm lạy Giời, con xin đọc”
Đọc hết văn vần, sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý, lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Trè giời nhấp giọng càng tốt hơi
Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Giời nghe, Giời cũng lấy làm hay
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài, cùng vỗ tay
“Bẩm con không dám man cửa Giời
Những các văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lý
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Giời, văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi!”
Văn đã giầu thay, lại lắm lối
Giời nghe Giời cũng bượch buồn cười
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
“Anh gánh lên đây, bán chợ giời”
Giời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít?
Nhời văn truốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây truyển!
Êm như gió thoảng! tinh như sương!
Đầm như mưa sa! lạnh như tuyết!
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
Người ở phương nào, ta chửa biết”
“Dạ, bẩm lạy Giời, con xin thưa:
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”
Nghe xong, Giời ngợ một chút lâu
Sai bảo Thiên Tào lấy sổ xét
Thiên Tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lên trình Thượng đế trông:
“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đầy xuống hạ giới vì tội ngông”
Giời rằng: “Không phải là Giời đầy
Giời định sai con một việc nầy
Là việc “thiên lương” của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay”
“Bẩm Giời, cảnh con thật nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ Giời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó
Giấy người, mực người, thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu
Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém, tuổi ngày cao
Sức trong non yếu, ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm triều
Giời lại sai con việc nặng quá
Biết làm có nổi mà dám theo?”
Rằng: “Con không nói, Giời đã biết
Giời dẫu ngồi cao, Giời thấu hết
Thôi, con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!
Cố xong công việc của Trời sai
Trời sẽ cho con về Đế khuyết”
Vâng nhời Giời dạy, lạy xin ra
Trời sai Thiên Ngưu đóng xe tiễn
Xe giời đã chực ngoài thiên môn
Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt
Hai hàng luỵ biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian vạn dặm khơi!
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai
Đêm khuya, khí thanh, sao thưa vắng
Giăng tà đưa lối về non đoài
Non đoài đã tới quê trần giới
Trông lên chư tiên không còn ai
Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi
Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đêm lên hầu Giời!

*

“Lên Hầu Giời: Nỗi Niềm Văn Nhân và Giấc Mơ Thiên Lương”

Bài thơ Hầu Giời của Tản Đà là một tác phẩm độc đáo, vừa mang đậm dấu ấn trữ tình, vừa hài hước, châm biếm nhưng lại sâu sắc và đầy triết lý. Qua câu chuyện thi nhân được lên thiên đình để trình bày văn chương của mình, Tản Đà không chỉ khắc họa chân dung người nghệ sĩ tài hoa mà còn gửi gắm những nỗi niềm trăn trở về thân phận kẻ làm văn, về giá trị của chữ nghĩa trong xã hội, và sứ mệnh của con người trên trần thế.

Cuộc hành trình lên Hầu Giời: Mộng và thực giao hòa

Bài thơ mở đầu với giọng điệu nửa thực, nửa mơ:
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.”

Những câu thơ như đưa người đọc vào một giấc mộng kỳ ảo, nơi thi nhân bất ngờ được mời lên thiên đình. Hình ảnh “hai cô tiên xuống” mời nhà thơ lên trình diễn văn chương cho Giời nghe, không chỉ là cách mở ra bối cảnh phi thường mà còn là lời tự khẳng định tài năng của Tản Đà – tiếng ngâm thơ của ông vang đến tận Ngân Hà, khiến cả thiên đình phải xôn xao.

Cuộc hành trình lên thiên giới không chỉ là một giấc mộng đẹp mà còn mang tính biểu tượng: đó là khát vọng của người nghệ sĩ được cất tiếng nói, được ghi nhận và tôn vinh giữa một xã hội trần gian đầy những khó khăn, thách thức.

Văn chương và thân phận thi nhân: Nỗi niềm của Tản Đà

Khi lên đến thiên đình, Tản Đà đã trình bày với Giời những tác phẩm của mình:
“Hai quyển Khối tình văn thuyết lý
Hai Khối tình con là văn chơi.”

Danh sách những tác phẩm ông liệt kê không chỉ để khoe về sự phong phú của văn chương, mà còn là lời than thở đầy chua xót về thân phận người nghệ sĩ. Bằng giọng điệu vừa hóm hỉnh vừa tự trào, ông cho thấy nỗi cơ cực của người làm văn:
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.”

Tản Đà không chỉ nói lên tình cảnh của riêng mình mà còn đại diện cho biết bao kẻ sĩ tài hoa bị xã hội thờ ơ, chật vật mưu sinh. Đằng sau những câu thơ châm biếm ấy là nỗi đau và sự trăn trở về giá trị của văn chương trong một thế giới thực dụng, nơi “văn hay” không đủ giúp người nghệ sĩ thoát khỏi cảnh nghèo.

Thông điệp từ Giời: Sứ mệnh “thiên lương”

Điểm nhấn quan trọng của bài thơ chính là lời phán của Giời:
“Giời định sai con một việc này
Là việc ‘thiên lương’ của nhân loại.”

Tản Đà tự nhận mình là người được giao trọng trách lớn lao – truyền tải “thiên lương” cho đời. Đây không chỉ là một nhiệm vụ thần thánh mà còn là lý tưởng nghệ thuật cao cả của thi nhân: dùng văn chương để thức tỉnh, hướng dẫn và nâng cao tâm hồn con người.

Tuy nhiên, trách nhiệm ấy lại được giao cho một người nghệ sĩ nghèo khó, đơn độc:
“Sức trong non yếu, ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm triều.”

Qua lời bộc bạch với Giời, Tản Đà bày tỏ sự bất lực trước những áp lực của cuộc sống và hoài nghi liệu mình có thể hoàn thành nhiệm vụ đó hay không. Đây không chỉ là tâm sự của riêng ông mà còn là tiếng lòng của biết bao người nghệ sĩ trước thử thách của đời sống thực tại.

Chất trào phúng và triết lý nhân sinh

Hầu Giời không chỉ chạm đến nỗi niềm bi kịch của người nghệ sĩ mà còn mang đậm chất trào phúng và hài hước. Hình ảnh Giời “lấy làm hay” khi nghe văn, rồi tiên nữ vỗ tay khen ngợi, thậm chí còn gợi ý:
“Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
‘Anh gánh lên đây, bán chợ giời.’”

Sự hài hước này vừa là cách Tản Đà tự trào, vừa là lời phê phán nhẹ nhàng đối với xã hội, nơi giá trị văn chương bị xem nhẹ và đồng tiền chi phối tất cả.

Tuy nhiên, đằng sau sự trào phúng ấy là một triết lý sâu sắc: sự nỗ lực và khát vọng vượt lên thực tại. Giời đã trao cho thi nhân niềm tin:
“Thôi, con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết.”

Lời dạy này như một sự khích lệ, nhắn nhủ rằng, dù khó khăn, người nghệ sĩ vẫn cần kiên định với sứ mệnh của mình – lan tỏa ánh sáng thiên lương giữa đời.

Kết luận

Hầu Giời không chỉ là một bài thơ mang tính giải trí mà còn là một tác phẩm sâu sắc, phản ánh tâm hồn và lý tưởng của Tản Đà. Qua câu chuyện thi nhân lên thiên đình, ông đã gửi gắm những nỗi niềm, những trăn trở và cả những khát vọng của mình. Đó là khát vọng về một thế giới nơi văn chương được tôn vinh và nghệ sĩ được sống đúng với giá trị của mình. Đây cũng chính là thông điệp vượt thời gian mà Tản Đà để lại cho hậu thế.

*

Tản Đà: Nhà Thơ Tiên Phong trong Làn Gió Đổi Mới Văn Học Việt Nam

Nhắc đến Tản Đà, người yêu văn học không thể không nghĩ tới một nhà thơ tài hoa, một người nghệ sĩ đầy cá tính, và là cầu nối giữa hai thời đại: văn học trung đại và hiện đại Việt Nam. Với phong cách độc đáo, Tản Đà đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn học nước nhà, trở thành biểu tượng của sự sáng tạo và khát vọng đổi mới.

Tiểu sử và hành trình sáng tác

Tản Đà, tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1889 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt (nay thuộc Ba Vì, Hà Nội). Ông xuất thân trong một gia đình nho học, nhưng cuộc đời ông không ràng buộc với khuôn khổ của đạo Nho truyền thống. Bút danh “Tản Đà” được ông lấy từ hai danh thắng quê hương: núi Tản Viên và sông Đà, thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc.

Tản Đà là người sống trong giai đoạn giao thời, khi xã hội phong kiến Việt Nam dần suy tàn, nhường chỗ cho những luồng tư tưởng mới từ phương Tây. Chính sự chuyển giao ấy đã tạo nên trong con người ông một tâm hồn đa cảm, vừa hoài cổ, vừa khao khát đổi thay.

Sự nghiệp sáng tác của Tản Đà bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ 20. Ông viết nhiều thể loại, từ thơ ca, truyện ngắn, tiểu thuyết đến dịch thuật và báo chí. Các tác phẩm nổi bật của ông bao gồm Khối tình con, Giấc mộng con, Giấc mộng lớn, và những bài thơ bất hủ như Hầu Giời, Thề non nước, Cảm thu, tiễn thu.

Phong cách thơ và đóng góp văn học

Phong cách thơ của Tản Đà mang một nét rất riêng, kết hợp giữa sự mộc mạc của văn học trung đại và sự phóng khoáng, tự do của văn học hiện đại. Thơ ông giàu cảm xúc, đầy lãng mạn, và thể hiện tâm hồn nghệ sĩ tự do, không chịu khuất phục trước khuôn khổ.

Một trong những đặc điểm nổi bật của thơ Tản Đà là tính chất “ngông.” Tính cách “ngông” ấy không chỉ là thái độ thách thức những quy chuẩn xã hội mà còn thể hiện khát vọng khẳng định bản thân, khát vọng sống và sáng tạo. Những bài thơ như Hầu Giời hay Thề non nước đã làm nổi bật sự phóng túng, trí tưởng tượng bay bổng và giọng điệu hóm hỉnh, dí dỏm của ông.

Không chỉ là nhà thơ lãng mạn, Tản Đà còn được coi là người tiên phong trong việc hiện đại hóa văn học Việt Nam. Ông viết văn xuôi bằng chữ quốc ngữ, sáng tác theo phong cách phóng khoáng và đưa ngôn ngữ bình dân vào văn chương, mở đường cho thế hệ nhà văn hiện đại sau này như Thạch Lam, Xuân Diệu, và Huy Cận.

Tản Đà – nhà thơ của tâm hồn tự do

Tản Đà là một nhà thơ sống bằng cảm xúc và tự do. Ông từng tâm sự:
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo,
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.”

Câu nói ấy vừa là lời tự trào hài hước, vừa bộc lộ nỗi niềm chua xót của một người nghệ sĩ phải đối mặt với cuộc sống khó khăn. Tuy nhiên, vượt lên trên mọi thách thức, ông vẫn kiên định với sứ mệnh sáng tạo, dùng ngòi bút để lan tỏa cái đẹp và phản ánh tâm tư thời đại.

Di sản văn học

Tản Đà qua đời năm 1939, nhưng những đóng góp của ông vẫn còn sống mãi. Ông đã khẳng định giá trị của văn chương trong việc nâng cao tâm hồn con người, đồng thời mở đường cho sự phát triển của văn học hiện đại Việt Nam.

Tản Đà không chỉ là một nhà thơ, nhà văn mà còn là một biểu tượng của tinh thần đổi mới và sáng tạo, một tâm hồn yêu tự do và luôn hướng tới những giá trị cao đẹp. Chính ông, với những bài thơ vượt thời gian, đã gieo mầm cho sự phát triển của một nền văn học Việt Nam hiện đại, giàu sức sống và sáng tạo.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *