Bài thơ: Khóc người vợ hiền – Tú Mỡ

Khóc người vợ hiền

Tú Mỡ

Bà Tú ơi! Bà Tú ơi!

Té ra bà đã qua đời, thực ư ?

Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác,

Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm bao

Tỉnh dậy, nào thấy đâu nào,

Nào đâu bóng dáng ra vào hôm mai

Đâu bóng dáng con người thùy mị,

Tuy tuổi già xấp xỉ bảy mươi,

Vần còn khỏe mạnh, vui tươi,

Le te, nhanh nhẹn như thời xuân xanh.

Nhìn sau lưng vô tình cứ ngỡ

Một cô nào thiếu nữ thanh tân.

Vậy mà cái chết bất thần

Cướp bà đi mất, vô ngần xót xa!

Kể từ thuở đôi ta kết tóc,

Thấm thoát gần năm chục năm qua

Thủy chung chồng thuận vợ hòa,

Gia đình hạnh phúc thật là ấm êm.

Tôi được bà vợ hiền thuần thục,

Cảm thấy mình tốt phúc bao nhiêu!

Đôi ta cùng một cảnh nghèo,

Đạo chồng vợ lấy chữ yêu làm nền.

Nhớ khi giường bệnh đã nằm,

Bà còn thủ thỉ tình thâm thương chồng

“Tôi mà chết thì ông sẽ khổ,

Vì, cứ theo câu cổ ngữ ta

Xưa nay con cái nuôi cha

Cũng không chu đáo bằng bà nuôi ông.

“Bà ơi, hãy dầu lòng yên dạ,

Giấc nghìn thu cho thoả vong hồn,

Bà đi, đã có dâu con,

Một lòng phụng dưỡng, chăm nom bố già.

Tôi có khổ, âu là chỉ khổ

Vì thiếu bà, nhà cửa vắng tanh,

Khổ khi thức giấc tàn canh

Bên giường trống trải một mình nằm trơ.

Khổ nhớ lại sớm trưa ngày trước

Pha ấm trà chén nước mời nhau.

Giờ tôi chẳng thấy bà đâu,

Bên bàn thờ nhắp chén sầu đầy vơi…

Khổ những lúc ra sân mê tỉnh

Ngắm vườn nhà thấy cảnh thênh thang,

Mà bà khuất núi cho đang,

Quả cau tươi, lát rầu vàng ai xơi?

Khổ trông thấy cái cơi còn đó,

Đã khô trầu, khô vỏ, khô cau.

Ba thước đất đã vùi sâu

Cặp môi cắn chỉ ăn trầu đỏ tươi

Ngẫm: cảnh già cuộc đời sung sướng,

Tưởng vợ chồng còn hưởng dài lâu

Không ngờ con tạo cơ cầu,

Bà đi, để tủi dể sầu cho tôi

Ôi! Duyên nợ thế thôi là hết,

Năm mu_ơi năm thám thiết yêu nhau!

Bà về trước, tôi về sau

Thôi đành tạm biệt, nuốt sầu gượng vui

Bà đi rồi nhưng tôi phải ở,

Công việc đời còn dở tí thôi,

Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi,

Về nơi cực lạc, lại tôi với bà…

(19-11-1968)

*

Tình Yêu Vĩnh Cửu Trong “Khóc Người Vợ Hiền”

Bài thơ “Khóc Người Vợ Hiền” của nhà thơ Tú Mỡ là một tác phẩm đẫm nước mắt, chứa đựng tình yêu thương sâu sắc và nỗi xót xa không thể nguôi ngoai khi mất đi người bạn đời. Câu chuyện trong bài thơ không chỉ là lời khóc than của một người chồng mất vợ mà còn là sự chiêm nghiệm về cuộc sống, về những giá trị vô hình của tình yêu thương và sự sẻ chia mà chỉ có người vợ hiền mới có thể mang lại. Thông qua tác phẩm này, Tú Mỡ không chỉ truyền tải nỗi đau của sự mất mát mà còn là lời nhắc nhở về giá trị của sự hi sinh, sự yêu thương vô bờ bến trong gia đình.

Tình Yêu Và Sự Hy Sinh Của Người Vợ Hiền

Ngay từ câu thơ đầu tiên, người chồng đã bày tỏ sự sửng sốt và đau đớn khi biết tin vợ mình qua đời:
“Bà Tú ơi! Bà Tú ơi!
Té ra bà đã qua đời, thực ư?”

Đó là sự ngỡ ngàng, không thể tin vào sự thật phũ phàng, như thể ông đang mơ, đang trong một cơn ác mộng. Tuy nhiên, thực tế đã đến, và người vợ hiền, người bạn đời suốt gần nửa thế kỷ qua đã ra đi. Sự bất ngờ của người chồng thể hiện một tình yêu sâu sắc và một sự lệ thuộc tình cảm vào người vợ, đến nỗi khi vắng bóng bà, ông không thể tưởng tượng nổi cuộc sống của mình sẽ ra sao.

Tú Mỡ miêu tả bà Tú như một người phụ nữ luôn yêu thương, chăm sóc chồng, chăm lo cho gia đình. Dù tuổi đã cao, nhưng bà vẫn giữ được nét thanh xuân, nhanh nhẹn và khỏe mạnh. Tình cảm vợ chồng của họ là minh chứng cho một cuộc sống hạnh phúc, thủy chung, và luôn đầy ắp tình yêu thương:
“Từ thuở đôi ta kết tóc,
Thấm thoát gần năm chục năm qua
Thủy chung chồng thuận vợ hòa,
Gia đình hạnh phúc thật là ấm êm.”

Câu thơ này không chỉ kể về một quãng thời gian dài mà họ đã sống hạnh phúc bên nhau, mà còn khắc họa một tình yêu vững bền, đầy trân trọng và sự hi sinh vô điều kiện từ người vợ.

Sự Mất Mát Và Nỗi Đau Khó Tả

Khi bà Tú ra đi, nỗi đau mất vợ càng thêm nặng nề. Người chồng nhớ lại những khoảnh khắc bình dị, thân thuộc trước đây mà nay không còn nữa:
“Khổ khi thức giấc tàn canh,
Bên giường trống trải một mình nằm trơ.”

Những lúc bà pha trà, mời nước, chăm sóc chồng, những buổi sáng mai cùng nhau trò chuyện, giờ chỉ còn là ký ức. Căn nhà vốn đầy ắp tiếng cười, nay vắng lặng, không còn hình bóng của người vợ hiền. Chính sự vắng mặt của bà khiến mọi thứ trở nên mơ hồ, mất đi sự ấm áp vốn có.

Trong lòng người chồng, nỗi nhớ và niềm đau không thể tả nổi. Hình ảnh chiếc cơi trầu vẫn còn đó, nhưng bà không còn ở đây để ăn trầu cùng ông nữa. Chính trong cái vắng lặng của sự mất mát, những thứ vật chất quanh ta cũng trở nên vô nghĩa.
“Khổ nhớ lại sớm trưa ngày trước
Pha ấm trà chén nước mời nhau.
Giờ tôi chẳng thấy bà đâu,
Bên bàn thờ nhắp chén sầu đầy vơi…”

Cái chết của bà Tú không chỉ cướp đi người vợ, mà còn cướp đi một phần cuộc sống, một phần chính mình của người chồng. Ông trở nên trống vắng, cô đơn, không biết làm gì ngoài việc nhớ lại những ký ức ngọt ngào đã qua.

Cuộc Sống Tiếp Diễn Với Niềm Tin Về Tình Yêu Vĩnh Cửu

Dù trong nỗi buồn và sự tiếc thương vô hạn, người chồng vẫn cố gắng đứng dậy, tiếp tục sống, vì ông tin rằng cuộc sống này không phải là điểm cuối. Tình yêu mà ông dành cho vợ vẫn vĩnh cửu, sẽ mãi mãi sống trong trái tim ông cho đến khi ông cũng phải ra đi:
“Bà đi rồi nhưng tôi phải ở,
Công việc đời còn dở tí thôi,
Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi,
Về nơi cực lạc, lại tôi với bà…”

Dù bà đã khuất núi, người chồng vẫn hy vọng một ngày nào đó họ sẽ lại được gặp nhau nơi thiên đàng, nơi mà không còn sự chia ly. Tình yêu trong bài thơ không chỉ là tình cảm giữa hai người, mà còn là niềm tin vào một sự tái hợp, một tình yêu vĩnh hằng.

Lời Kết

“Khóc Người Vợ Hiền” là một bài thơ đầy xúc động, khắc họa nỗi đau mất mát, sự hi sinh và tình yêu vợ chồng vĩnh cửu. Tú Mỡ đã khéo léo sử dụng hình ảnh người vợ hiền để làm nổi bật giá trị của sự yêu thương, sự gắn bó trong gia đình. Dù người vợ đã qua đời, nhưng tình yêu ấy vẫn sống mãi trong lòng người chồng, và trong ký ức của gia đình. Bài thơ nhắc nhở mỗi người về sự trân trọng những gì mình đang có, về tình yêu thương vô điều kiện, và về sự quý trọng những giây phút bên nhau.

*

Giới thiệu về nhà thơ Tú Mỡ

Tú Mỡ, tên thật là Hồ Trọng Hiếu (1900–1976), là một trong những nhà thơ trào phúng nổi bật nhất của Việt Nam. Với gần nửa thế kỷ cầm bút, ông đã có những đóng góp quan trọng đối với thơ ca Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực thơ trào phúng. Tú Mỡ được xem như bậc thầy của thể loại này qua nhiều giai đoạn lịch sử, từ thời kỳ thuộc địa đến cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.

Cuộc đời và sự nghiệp

Tú Mỡ sinh ngày 14 tháng 3 năm 1900 tại Hà Nội trong một gia đình lao động nghèo. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ niềm đam mê với văn chương. Sau khi học chữ Hán và chữ Quốc ngữ, ông tiếp tục theo học tại trường Bưởi, nơi ông làm quen với nhiều văn nhân nổi tiếng như Hoàng Ngọc Phách.

Năm 16 tuổi, ông bắt đầu sáng tác thơ, chịu ảnh hưởng từ các nhà thơ lớn như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, và Tú Xương. Năm 1932, sau khi gặp Nhất Linh, ông gia nhập Tự Lực văn đoàn và phụ trách mục Giòng nước ngược trên báo Phong Hóa. Đây là thời kỳ ông khẳng định tài năng của mình qua những tác phẩm trào phúng sắc sảo và giàu tính thời sự.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông dùng ngòi bút làm vũ khí để lên án thực dân, ca ngợi tinh thần đấu tranh của nhân dân. Ông ký bút danh Bút Chiến Đấu, với quan niệm rằng sáng tác cũng là một hình thức chiến đấu nghiêm túc.

Sau năm 1954, Tú Mỡ tiếp tục sáng tác phục vụ cuộc đấu tranh chống Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ông còn tham gia tích cực vào các tổ chức văn học nghệ thuật, từng là Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam và Ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.

Tác phẩm tiêu biểu

Tú Mỡ để lại một gia tài thơ ca phong phú với nhiều tác phẩm nổi bật như: Giòng nước ngược (gồm 3 tập, xuất bản từ 1934–1945); Nụ cười kháng chiến (1952); Anh hùng vô tận (1952); Nụ cười chính nghĩa (1958); Đòn bút (1962). Ngoài thơ trào phúng, ông còn sáng tác nhiều vở chèo, tuồng và diễn ca, góp phần vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân gian.

Phong cách sáng tác

Thơ của Tú Mỡ mang đậm chất dân gian, dễ hiểu, gần gũi với quần chúng. Ông kết hợp hài hước, châm biếm với tinh thần nhân văn sâu sắc. Nụ cười trong thơ ông không chỉ để mua vui mà còn để phê phán những bất công xã hội, cổ vũ lẽ phải và tinh thần lạc quan.

Như Vũ Ngọc Phan từng nhận xét, thơ Tú Mỡ là sự kế thừa xuất sắc các bậc tiền nhân như Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương, nhưng đồng thời cũng mang đậm dấu ấn riêng, với ngôn ngữ dí dỏm và cách gieo vần tài tình.

Di sản và vinh danh

Với những đóng góp lớn lao, Tú Mỡ đã nhận được nhiều giải thưởng quan trọng: Giải nhất về thơ ca của Hội Văn nghệ Việt Nam (1951); Giải nhì về thơ ca (1955); Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (truy tặng năm 2000). Tên của ông hiện được đặt cho nhiều con đường ở Hà Nội và các tỉnh thành khác, ghi dấu ấn về một nhà thơ suốt đời cống hiến cho sự nghiệp văn học và đất nước.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *