Bài thơ Nhàn
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu, đến gốc cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý, tựa chiêm bao.
Ý nghĩa bài thơ Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bài thơ Nhàn là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nằm trong tập thơ Bạch Vân quốc ngữ thi của ông. Tác phẩm thể hiện triết lý sống nhàn dật, hòa hợp với thiên nhiên, đồng thời là thái độ ung dung, tự tại của một bậc hiền nhân trước sự xô bồ của cuộc đời. Hãy cùng phân tích bài thơ qua từng cặp câu thơ.
Hai câu đề:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
- Hình ảnh “một mai, một cuốc, một cần câu” gợi lên cuộc sống giản dị, gần gũi với thiên nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm tự khắc họa mình như một lão nông, lấy lao động chân tay làm niềm vui.
- Từ “thơ thẩn” diễn tả tâm thế ung dung, thoải mái, không màng đến những thú vui phù phiếm hay danh lợi của đời.
- Cách lặp từ “một” nhấn mạnh sự đơn sơ, tối giản, nhưng lại cho thấy niềm hạnh phúc trọn vẹn trong lối sống đạm bạc.
Hai câu thực:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
- Hai câu thơ thể hiện sự đối lập giữa “nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao”, đồng thời phản ánh triết lý sống “nhàn” của tác giả.
- “Nơi vắng vẻ” tượng trưng cho sự thanh tĩnh, hòa mình vào thiên nhiên, tránh xa bon chen danh lợi.
- “Chốn lao xao” ám chỉ cuộc sống nơi quan trường đầy thị phi, tranh giành.
- Cách dùng từ “dại” và “khôn” là một cách nói ngược đầy ý vị của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Theo ông, người “khôn” theo đuổi danh lợi hóa ra lại dại, còn người “dại” tìm đến sự nhàn dật mới thực sự khôn ngoan.
Hai câu luận:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
- Hai câu thơ miêu tả lối sống hài hòa với tự nhiên qua bốn mùa.
- “Măng trúc” và “giá” là những món ăn thanh đạm, biểu trưng cho sự giản dị.
- “Tắm hồ sen” và “tắm ao” thể hiện sự gần gũi với thiên nhiên, không cần đến những tiện nghi xa hoa.
- Qua đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho thấy quan điểm sống thuận theo tự nhiên, không bon chen, không ham muốn những gì vượt quá nhu cầu cơ bản.
Hai câu kết:
Rượu, đến gốc cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý, tựa chiêm bao
- Hình ảnh “rượu” và “gốc cây” gợi lên một cuộc sống thanh nhàn, tự tại. “Uống rượu” không phải để say sưa mà là để tận hưởng sự an yên, thư thái.
- Câu thơ cuối cùng “Nhìn xem phú quý, tựa chiêm bao” thể hiện cái nhìn sâu sắc của tác giả về danh lợi. Ông coi phú quý như giấc mộng phù du, ngắn ngủi, không có ý nghĩa lâu dài. Đây là triết lý vô thường của Nho – Đạo.
Nội dung và nghệ thuật:
Nội dung:
- Bài thơ phản ánh triết lý sống nhàn dật, gần gũi với thiên nhiên và sự chối bỏ danh lợi.
- Tác giả thể hiện thái độ ung dung, tự tại, không màng đến sự hơn thua hay cám dỗ nơi quan trường.
- Đây không chỉ là lối sống cá nhân mà còn là lời khuyên nhủ thế nhân: hãy trân trọng những giá trị giản đơn và thực sự ý nghĩa.
Nghệ thuật:
- Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng giàu sức gợi.
- Kết cấu đối lập (“dại” – “khôn”, “vắng vẻ” – “lao xao”) làm nổi bật triết lý sống.
- Sử dụng hình ảnh thiên nhiên để thể hiện ý chí, nhân sinh quan.
Kết luận:
Bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là bức tranh đẹp về cuộc sống giản dị mà còn là bài học sâu sắc về cách sống. Trong xã hội hiện đại, giá trị của bài thơ vẫn nguyên vẹn: khuyên con người tìm đến sự bình yên, biết đủ, và sống hòa hợp với thiên nhiên thay vì chạy theo những giá trị phù phiếm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) quê ở làng Trung Am, nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng. Năm 1535, ông đỗ Trạng nguyên và được ra làm quan dưới triều đại nhà Mạc.
Khi còn làm quan, ông từng dâng sớ xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng nhà vua không nghe. Nguyễn Bỉnh Khiêm bèn cáo quan về quê, lập quán Trung Tân, dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dạy dỗ ra nhiều học trò nổi tiếng nên được người đời tôn là “Tuyết Giang Phu Tử” (Người thầy sông Tuyết).
Ông là một người có học vấn uyên thâm, hễ có việc hệ trọng là vua Mạc hay chúa Trịnh đều cho hỏi ý kiến của ông. Dù đã lui về ở ẩn nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn tham vấn cho trình đình nhà Mạc. Ông được phong tước Trình Tuyền hầu, Trình Quốc công nên được gọi là Trạng Trình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn của dân tộc. Một số tác phẩm tiêu biểu: tập thơ chữ Hán “Bạch Vân am thi tập” với khoảng 700 bài thơ, tập thơ chữ Nôm “Bạch Vân quốc ngữ thi tập (khoảng 170 bài). Thơ của ông đậm chất triết lí, giáo huấn và ngợi ca chí của kẻ sĩ thú thanh nhàn và phê phán những điều xấu xa trong xã hội.
St.
Bài thơ “Chữ Nhàn” – Nguyễn Công Trứ