Bài thơ: “Phở” đức tụng – Tú Mỡ

“Phở” đức tụng

Tú Mỡ

Trong các món ăn “quân tử vị”,

Phở là quà đáng quý trên đời.

Một vài xu, nào đắt đỏ mấy mươi,

Mà đủ vị: ngọt, bùi, thơm, béo, bổ.

Náy bánh cuốn, này thịt bò, này nước dùng sao nhánh mỡ,

Ngọn rau thơm, hành củ thái trên.

Nước mắm, hồ tiêu, cùng dấm, ớt điểm thêm,

Khói nghi ngút đưa lên thơm ngát mủi.

Như xúc động tới ruột gan bàn phổi,

Như giục khơi cái đói của con tì.

Dẫu sơn hào, hải vị khôn bì,

Xới một bát nhiều khi chưa thích miệng.

Kẻ phú quý cho chí người bần tiện,

Hỏi ai là đã nếm không ưa,

Thầy thông, thấy phán đi sớm về trưa,

Điểm tâm phở, ngon ơ và chắc dạ.

Cánh thuyền thợ làm ăn vất vả,

Phở xơi no cũng đỡ nhọc nhằn.

Khách làng thơ đêm thức viết văn,

Được bát phở cũng đỡ băn khoăn óc bí…

Bọn đào kép, con nhà ca kỹ,

Lấy phở làm đầu vị giải lao.

Chúng chị em sớm mận tối đào,

Nhờ có phở cũng đỡ hao nhan sắc.

Phở là đại bổ, tốt bằng mười thang thuốc bắc,

Quế, phụ sâm, nhung chưa chắc đã hơn gì.

Phở bổ âm, dương, phế, thận, can, tì,

Bổ cả ngũ tạng, tứ chi, bát mạch.

Anh em lao động đồng tiền không rúc rích,

Coi phở là môn thuốc ích vô song.

Các bậc vương tôn thường chả phượng, nem công,

Chưa chén phở, vẫn còn chưa đủ món.

Chớ chê phở là đồ ăn hèn mọn,

Dẫu sao thành Ba-Lê còn phải đón phở sang.

Cùng các cao lương vạn quốc phô trương,

Ngon lại rẻ, thường hay quán giải.

Sống trên đời, phở không ăn cũng dại,

Lúc buông tay ắt phải cúng kem.

Ai ơi, nếm thử kẻo thèm.

(Nguồn: Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, Xuân Thu tái bản, 2000)

*

Phở: Hương Vị Tình Cảm Và Triết Lý Cuộc Sống

Trong thế giới ẩm thực Việt Nam, phở là một món ăn không chỉ nổi bật về hương vị mà còn chứa đựng những giá trị văn hóa và tình cảm sâu sắc. Bài thơ “Phở” Đức Tụng của nhà thơ Tú Mỡ không chỉ đơn thuần ca ngợi món ăn bình dân này mà còn là một tác phẩm sâu sắc, gửi gắm thông điệp về sự giản dị mà tuyệt vời trong cuộc sống. Phở, với tất cả sự tỉ mỉ trong từng thành phần và vị giác, không chỉ là một bữa ăn ngon mà còn là biểu tượng của sự hòa hợp, sự bổ dưỡng cho thể xác lẫn tinh thần.

Phở: Món Quà Quý Giá Của Cuộc Sống

Ngay từ những câu đầu tiên, Tú Mỡ đã miêu tả phở như một món ăn “quân tử vị,” tức là một món ăn cao quý, mang lại giá trị tuyệt vời. Dù là một món ăn bình dân, phở vẫn được xem là một “quà đáng quý trên đời,” một món quà có thể làm hài lòng tất cả mọi người, từ người giàu có đến người nghèo khó. Bài thơ không chỉ dừng lại ở việc tả về các nguyên liệu như bánh cuốn, thịt bò, nước dùng, mà còn đưa ra một hình ảnh sinh động về sự hòa quyện giữa các yếu tố trong bát phở – từ ngọt, bùi, thơm, béo đến mùi vị đầy kích thích của hành củ, rau thơm, tiêu, ớt và mắm:
“Náy bánh cuốn, này thịt bò, này nước dùng sao nhánh mỡ,
Ngọn rau thơm, hành củ thái trên.
Nước mắm, hồ tiêu, cùng dấm, ớt điểm thêm.”

Tất cả những hương vị này không chỉ làm dậy lên cảm giác ngon miệng mà còn khiến người thưởng thức phải xúc động, gợi nhớ về những giây phút bình yên, những bữa ăn ấm cúng. Phở không đơn thuần là một món ăn mà là một phần của cuộc sống, góp phần nuôi dưỡng tinh thần và thể chất của con người.

Phở: Sự Giản Dị Mà Đầy Hạnh Phúc

Điều đặc biệt trong bài thơ của Tú Mỡ là sự khám phá sâu sắc về vai trò của phở trong đời sống. Phở không chỉ là món ăn dành cho người giàu có, mà là nguồn dinh dưỡng bổ ích cho mọi tầng lớp trong xã hội. Từ thầy giáo, thẩm phán đến người lao động vất vả, từ những nghệ sĩ đào kép đến những người phụ nữ tảo tần, tất cả đều có thể tìm thấy sự an ủi và bổ sung sức lực trong một bát phở:
“Thầy thông, thầy phán đi sớm về trưa,
Điểm tâm phở, ngon ơ và chắc dạ.
Cánh thuyền thợ làm ăn vất vả,
Phở xơi no cũng đỡ nhọc nhằn.”

Phở không phân biệt giàu nghèo, mà có thể làm cho tất cả những ai thưởng thức nó cảm thấy dễ chịu, thoải mái và thêm năng lượng cho công việc.

Điều này càng rõ nét hơn khi Tú Mỡ miêu tả phở là một “món thuốc ích vô song,” có thể bổ âm, bổ dương, bổ ngũ tạng, tứ chi và bát mạch. Phở không chỉ đơn giản là một món ăn mà nó còn là phương thuốc kỳ diệu cho những người lao động vất vả, cho những ai đang cần sức khỏe và tinh thần dẻo dai để tiếp tục cuộc sống. Không có gì ngạc nhiên khi các bậc vương tôn, dù có cao lương mỹ vị, vẫn cần đến phở:
“Các bậc vương tôn thường chả phượng, nem công,
Chưa chén phở, vẫn còn chưa đủ món.”

Phở không chỉ ngon mà còn đầy đủ dưỡng chất, là sự bổ sung hoàn hảo cho cơ thể và tinh thần của mỗi người.

Phở: Món Ăn Của Tình Yêu Và Văn Hóa

Phở không chỉ là món ăn thông dụng mà còn là biểu tượng của nền văn hóa Việt Nam. Đặc biệt, bài thơ khéo léo lồng ghép hình ảnh phở trong bối cảnh của sự hội nhập và giao thoa văn hóa khi nói về sự xuất hiện của phở tại Paris, Pháp:
“Chớ chê phở là đồ ăn hèn mọn,
Dẫu sao thành Ba-Lê còn phải đón phở sang.”

Phở đã vượt qua ranh giới của một món ăn bình dân để trở thành một phần không thể thiếu trong nền ẩm thực quốc tế. Tú Mỡ đã làm nổi bật sự giản dị mà vĩ đại của phở, một món ăn có thể chinh phục mọi người ở mọi nơi trên thế giới.

Lời Kết: Phở – Biểu Tượng Của Cuộc Sống

Tú Mỡ đã dùng hình ảnh phở để nhấn mạnh rằng, trong cuộc sống này, những điều giản dị và gần gũi đôi khi lại là những món quà quý giá nhất. Phở là món ăn không chỉ no bụng mà còn nuôi dưỡng tinh thần, là nguồn cảm hứng, là phương thuốc bổ cho cơ thể lẫn tâm hồn. Trong xã hội hiện đại, khi mà cuộc sống trở nên xô bồ và vội vã, phở vẫn giữ được vị trí đặc biệt trong lòng mỗi người. Dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, phở vẫn là món ăn thể hiện sự đoàn kết, tình cảm và một phần không thể thiếu trong mỗi bữa ăn của người Việt.

Bài thơ của Tú Mỡ không chỉ là một lời ca ngợi món ăn yêu thích mà còn là một bài học về sự trân trọng những giá trị giản dị trong cuộc sống, về sự kết hợp tuyệt vời giữa ẩm thực và tình cảm con người. Khi thưởng thức một bát phở, bạn không chỉ cảm nhận hương vị, mà còn hiểu được sự tinh tế và sâu sắc trong từng lời thơ của nhà thơ Tú Mỡ.

*

Giới thiệu về nhà thơ Tú Mỡ

Tú Mỡ, tên thật là Hồ Trọng Hiếu (1900–1976), là một trong những nhà thơ trào phúng nổi bật nhất của Việt Nam. Với gần nửa thế kỷ cầm bút, ông đã có những đóng góp quan trọng đối với thơ ca Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực thơ trào phúng. Tú Mỡ được xem như bậc thầy của thể loại này qua nhiều giai đoạn lịch sử, từ thời kỳ thuộc địa đến cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.

Cuộc đời và sự nghiệp

Tú Mỡ sinh ngày 14 tháng 3 năm 1900 tại Hà Nội trong một gia đình lao động nghèo. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ niềm đam mê với văn chương. Sau khi học chữ Hán và chữ Quốc ngữ, ông tiếp tục theo học tại trường Bưởi, nơi ông làm quen với nhiều văn nhân nổi tiếng như Hoàng Ngọc Phách.

Năm 16 tuổi, ông bắt đầu sáng tác thơ, chịu ảnh hưởng từ các nhà thơ lớn như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, và Tú Xương. Năm 1932, sau khi gặp Nhất Linh, ông gia nhập Tự Lực văn đoàn và phụ trách mục Giòng nước ngược trên báo Phong Hóa. Đây là thời kỳ ông khẳng định tài năng của mình qua những tác phẩm trào phúng sắc sảo và giàu tính thời sự.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông dùng ngòi bút làm vũ khí để lên án thực dân, ca ngợi tinh thần đấu tranh của nhân dân. Ông ký bút danh Bút Chiến Đấu, với quan niệm rằng sáng tác cũng là một hình thức chiến đấu nghiêm túc.

Sau năm 1954, Tú Mỡ tiếp tục sáng tác phục vụ cuộc đấu tranh chống Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ông còn tham gia tích cực vào các tổ chức văn học nghệ thuật, từng là Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam và Ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.

Tác phẩm tiêu biểu

Tú Mỡ để lại một gia tài thơ ca phong phú với nhiều tác phẩm nổi bật như: Giòng nước ngược (gồm 3 tập, xuất bản từ 1934–1945); Nụ cười kháng chiến (1952); Anh hùng vô tận (1952); Nụ cười chính nghĩa (1958); Đòn bút (1962). Ngoài thơ trào phúng, ông còn sáng tác nhiều vở chèo, tuồng và diễn ca, góp phần vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân gian.

Phong cách sáng tác

Thơ của Tú Mỡ mang đậm chất dân gian, dễ hiểu, gần gũi với quần chúng. Ông kết hợp hài hước, châm biếm với tinh thần nhân văn sâu sắc. Nụ cười trong thơ ông không chỉ để mua vui mà còn để phê phán những bất công xã hội, cổ vũ lẽ phải và tinh thần lạc quan.

Như Vũ Ngọc Phan từng nhận xét, thơ Tú Mỡ là sự kế thừa xuất sắc các bậc tiền nhân như Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương, nhưng đồng thời cũng mang đậm dấu ấn riêng, với ngôn ngữ dí dỏm và cách gieo vần tài tình.

Di sản và vinh danh

Với những đóng góp lớn lao, Tú Mỡ đã nhận được nhiều giải thưởng quan trọng: Giải nhất về thơ ca của Hội Văn nghệ Việt Nam (1951); Giải nhì về thơ ca (1955); Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (truy tặng năm 2000). Tên của ông hiện được đặt cho nhiều con đường ở Hà Nội và các tỉnh thành khác, ghi dấu ấn về một nhà thơ suốt đời cống hiến cho sự nghiệp văn học và đất nước.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *