Bài thơ: Thề đi – Tú Mỡ

Thề đi

Tú Mỡ

Vì tiền có vụ kiện nhau

Thần công lý chẳng biết đâu mà rờ.

Mượn, vay, tờ chữ mập mờ,

Kẻ kêu chưa giả, người thưa giả rồi.

Thật là rắc rối, lôi thôi,

Quan toà chẳng rõ ai người gian ngay.

Các ngài đành chịu bó tay

Muốn ra manh mối phải xoay thần quyền.

Sức cho bên bị, bên nguyên

Ra đền Hàng Trống mà tuyên lời thề.

Ai ngay, Thánh để cho về…

Ai gian, Thánh vật xuống hè chết tươi.

Đền Hàng Trống? Các ngài ơi,

Các ngài hãy để cho tôi phì cười.

Đền Hàng Trống dạo vừa rồi

Bị thẳng kẻ trộm vào moi hòm tiền.

Thánh Bà nếu quả linh thiêng,

Đã làm cho nó đảo điên rụng rời..!

Nói chi đến việc thề bồi,

Bầy trò che mắt con người thế gian!

Từ xưa, bao kẻ khai man,

Vẫn nguây nguẩy sống, bình an như thường.

Thần thiêng, ồ chuyện hoang đường!

Thề trê chui ống, trò mường ai tin?

(Nguồn: Báo Ngày nay, số 89, ngày 12-12-1937)

*

“Thề Đi – Khi Công Lý Trở Thành Một Trò Đùa”

Bài thơ “Thề đi” của nhà thơ Tú Mỡ không chỉ là một tác phẩm trào phúng sắc sảo mà còn là một lời bình luận thâm thúy về xã hội. Qua giọng thơ hóm hỉnh, Tú Mỡ phơi bày những nghịch lý và bất cập trong cách con người tìm kiếm công lý – một công lý đôi khi bị biến tướng thành những trò hình thức và mê tín.

Công lý – Khi sự thật bị nhấn chìm

Bài thơ bắt đầu bằng bức tranh hỗn loạn của một vụ kiện tụng vì tiền. Cảnh tượng “kẻ kêu chưa giả, người thưa giả rồi” cho thấy sự phức tạp và khó phân định đúng sai trong các tranh chấp. Thần Công Lý – biểu tượng cho sự công bằng – được mô tả như một hình tượng xa vời, “chẳng biết đâu mà rờ.” Điều này ám chỉ sự yếu kém của hệ thống pháp luật khi không thể phân xử minh bạch.

Tú Mỡ mô tả sự bất lực của các quan tòa, khi họ phải cầu viện đến “thần quyền” để tìm ra sự thật. Nhưng chính giải pháp này lại khiến người đọc bật cười chua chát, bởi nó không phải là công lý thực sự, mà chỉ là trò diễn mang tính hình thức.

Đền Hàng Trống – Biểu tượng cho sự mỉa mai

Hình ảnh đền Hàng Trống, nơi được xem là nơi thề bồi linh thiêng, trở thành trung tâm của sự mỉa mai trong bài thơ. Tú Mỡ châm biếm sâu cay khi nhắc đến việc ngôi đền này từng bị trộm “moi hòm tiền,” một tình huống hoàn toàn đối nghịch với danh tiếng “thiêng liêng” của nó. Thánh Bà – biểu tượng của sự trừng phạt thần thánh – cũng không làm gì để ngăn chặn kẻ trộm.

Qua hình ảnh này, nhà thơ muốn nói lên sự vô nghĩa của những nghi thức tín ngưỡng khi chúng không dựa trên lý trí và sự thật. Chuyện thề thốt tại đền, từ góc nhìn của ông, chỉ là một “trò che mắt con người thế gian,” một cách để che đậy sự bất lực của con người trong việc tìm kiếm công lý thực sự.

Thông điệp sâu sắc và tính thời sự

Câu kết:
“Thề trê chui ống, trò mường ai tin?”
là lời cảnh tỉnh mạnh mẽ về sự lệ thuộc vào những phương thức hình thức và mê tín để giải quyết các vấn đề xã hội. Tú Mỡ không chỉ phê phán thói quen dựa dẫm vào thần quyền, mà còn kêu gọi con người phải dựa vào lý trí, đạo đức và sự minh bạch để xây dựng một xã hội công bằng.

Sự châm biếm – Vũ khí mạnh mẽ của Tú Mỡ

Bài thơ không chỉ là lời châm biếm sắc bén, mà còn chứa đựng sự thất vọng trước những bất công và lừa dối trong xã hội. Qua đó, nhà thơ khơi dậy một niềm khát khao cho một hệ thống công lý thực sự – nơi sự thật được tôn trọng và quyền lợi của con người không bị chà đạp.

“Thề đi” của Tú Mỡ là một tác phẩm vượt thời gian, mang giá trị phản biện mạnh mẽ. Bài thơ không chỉ khiến ta bật cười mà còn khiến ta suy ngẫm về trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc xây dựng một xã hội minh bạch và công bằng hơn.

*

Giới thiệu về nhà thơ Tú Mỡ

Tú Mỡ, tên thật là Hồ Trọng Hiếu (1900–1976), là một trong những nhà thơ trào phúng nổi bật nhất của Việt Nam. Với gần nửa thế kỷ cầm bút, ông đã có những đóng góp quan trọng đối với thơ ca Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực thơ trào phúng. Tú Mỡ được xem như bậc thầy của thể loại này qua nhiều giai đoạn lịch sử, từ thời kỳ thuộc địa đến cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.

Cuộc đời và sự nghiệp

Tú Mỡ sinh ngày 14 tháng 3 năm 1900 tại Hà Nội trong một gia đình lao động nghèo. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ niềm đam mê với văn chương. Sau khi học chữ Hán và chữ Quốc ngữ, ông tiếp tục theo học tại trường Bưởi, nơi ông làm quen với nhiều văn nhân nổi tiếng như Hoàng Ngọc Phách.

Năm 16 tuổi, ông bắt đầu sáng tác thơ, chịu ảnh hưởng từ các nhà thơ lớn như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, và Tú Xương. Năm 1932, sau khi gặp Nhất Linh, ông gia nhập Tự Lực văn đoàn và phụ trách mục Giòng nước ngược trên báo Phong Hóa. Đây là thời kỳ ông khẳng định tài năng của mình qua những tác phẩm trào phúng sắc sảo và giàu tính thời sự.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông dùng ngòi bút làm vũ khí để lên án thực dân, ca ngợi tinh thần đấu tranh của nhân dân. Ông ký bút danh Bút Chiến Đấu, với quan niệm rằng sáng tác cũng là một hình thức chiến đấu nghiêm túc.

Sau năm 1954, Tú Mỡ tiếp tục sáng tác phục vụ cuộc đấu tranh chống Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ông còn tham gia tích cực vào các tổ chức văn học nghệ thuật, từng là Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam và Ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.

Tác phẩm tiêu biểu

Tú Mỡ để lại một gia tài thơ ca phong phú với nhiều tác phẩm nổi bật như: Giòng nước ngược (gồm 3 tập, xuất bản từ 1934–1945); Nụ cười kháng chiến (1952); Anh hùng vô tận (1952); Nụ cười chính nghĩa (1958); Đòn bút (1962). Ngoài thơ trào phúng, ông còn sáng tác nhiều vở chèo, tuồng và diễn ca, góp phần vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân gian.

Phong cách sáng tác

Thơ của Tú Mỡ mang đậm chất dân gian, dễ hiểu, gần gũi với quần chúng. Ông kết hợp hài hước, châm biếm với tinh thần nhân văn sâu sắc. Nụ cười trong thơ ông không chỉ để mua vui mà còn để phê phán những bất công xã hội, cổ vũ lẽ phải và tinh thần lạc quan.

Như Vũ Ngọc Phan từng nhận xét, thơ Tú Mỡ là sự kế thừa xuất sắc các bậc tiền nhân như Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương, nhưng đồng thời cũng mang đậm dấu ấn riêng, với ngôn ngữ dí dỏm và cách gieo vần tài tình.

Di sản và vinh danh

Với những đóng góp lớn lao, Tú Mỡ đã nhận được nhiều giải thưởng quan trọng: Giải nhất về thơ ca của Hội Văn nghệ Việt Nam (1951); Giải nhì về thơ ca (1955); Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (truy tặng năm 2000). Tên của ông hiện được đặt cho nhiều con đường ở Hà Nội và các tỉnh thành khác, ghi dấu ấn về một nhà thơ suốt đời cống hiến cho sự nghiệp văn học và đất nước.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *