Bài thơ: Trường ca Sát Thát ­- Vũ Hoàng Chương

Trường ca Sát Thát

Vũ Hoàng Chương

Đoàn người ấy mọc lên trong sa mạc,
Cả một rừng gươm trên lưng ngựa trưởng thành.
Đoàn quân ấy từ phương Đông xuất phát,
Lũ con nuông bất trị của Trời Xanh!
Chỉ nhắp có hơi men “xung sát”,
Chỉ say sưa bằng những miếng “giao tranh”.
Nhằm hướng Phi châu,
Ngựa vọt tới đâu là đời sống tan tành,
Biển ngập máu còn mang tên “Hồng hải”.
Cờ phất Âu châu,
Ngựa dẵm tới đâu là xương phơi thịt giãi,
Biển đeo tang còn “Hắc hải” ghi danh.
Như ngọn cuồng lưu, như cơn bão cát,
Từ Mông cổ, Tân cương, đến Ba tư, Bách đạt,
Trở về Hoa hạ, Yên kinh;
Lũ “Thiên kiêu” từng bắc chiến tây chinh
Lẽ nào để một phương không xéo nát:
Trời Nam riêng cõi thanh bình!
Lẽ nào để chiếc ngai vàng Thát Đát
Ba chân trời đại lục đứng chênh vênh!
Hay đâu:
Bắc phương vừa quẫy đuôi kình,
Rồng thiêng đã sớm cựa mình Nam phương…
Trần triều hai Thánh đế
Hưng Đạo một đại vương;
Hội mở Diên hồng
     đất nước vang rền khí thế,
Hịch truyền Vạn kiếp
     trời mây sáng rực văn chương
Ý gửi từ muôn dân, lệnh trao từ chín bệ,
Thì: nắm đầu giặc như chơi
     cướp giáo giặc cũng dễ.
Đây: cửa sông Hàm tử
     bến đò Chương dương;
Nuốt sao Ngưu chẳng phải việc hoang đường.
Nam phương cường? Bắc phương cường?
Máu đào loang sóng Phú lương mấy lần!

Sét nổ trăm hai ngọn ải Tần,
Giang Hoài bốn tỉnh lại ra quân…
Năm mươi vạn tinh binh ruổi ngựa
Tràn xuống Thăng long
như cả một khu rừng bốc lửa
Những “cây sắt”, con nòi Thiết Mộc Chân.

Giống Hồng Lạc giữa hai đường sinh, tử,
Trông lên: sợi tóc buộc ngàn cân.
Chợt đâu đó, xé rèm mây quá khứ,
Xa thăm thẳm mấy ngàn năm Việt sử
Rọi về tia mắt tiền nhân,
Thiêu tàn khoảnh khắc bao do dự,
Cả đến thép vô danh cũng rực ánh gươm thần.
Sát cánh vua cùng dân,
Chung lòng tướng với quân,
Phá cường địch… Cờ ai sáu chữ,
Báo hoàng ân là báo quốc ân.
Trăm họ chẳng ai còn lưỡng lự,
Sông núi nào riêng một họ Trần!
Bình Than lại nổi phong vân,
Một gươm Tiết chế hai lần trao tay…

Lời Đại vương truyền nín cỏ cây;
Ba quân hào khí ngất từng mây.
Vụt nghe tướng lệnh, vươn mình thét:
“Sông Bạch Đằng tôi có mặt đây!
Hán, Hồ… cũng đến chôn thây,
Trước sau một khúc sông này mà thôi.”

Triều non bạc lên ngôi… giờ lịch sử!
Và xuống ngôi… theo lệnh đại vương truyền.
Nước rút đi, như ngàn vạn mũi tên
Lấy Đông hải làm bia nhằm bắn tới.
Một ám hiệu! Kình nghê vừa mắc lưới!
Thuyền vương sư liền quật khởi tranh phong
Tay chèo nổi ngược cơn giông
Tiếng hô “Sát Thát” vang sông ngập bờ.
Duyên giang một giải
Lau cũng phất cờ;
Mùa xuân gần cuối
Vẫn sóng bay hoa;
Ngang trời động sấm tháng Ba
Dọc sông chớp giật sáng loà gươm dao.
Cũng nơi đây Bạch Đằng giang một khúc
Ngô vương từng chém Hoằng Thao!
Gió mây thôi thúc
Quằn quại ba đào…
Chợt tưởng niệm, máu càng sôi sục,
Tinh thần quyết thắng bốc lên cao.

Thế phản công làm giặc dữ nôn nao
Chúng hoảng hốt vội thu quân về thượng lưu sông Bạch.
Nhưng số phận Hung Nô, người phương Nam đã vạch,
Hỡi ơi, bằng giáo sắt cắm ngang sông!
Đáy trường giang là cả một bàn chông,
Nằm đợi sẵn, khi thuỷ triều xuống thấp,
Đoàn thuyền giặc lùi qua bị xô nghiêng lật sấp,
Bị xé ra từng mảnh, vỡ tan thây…
Giữa lúc rồng thiêng mở vuốt tung mây:
Quân tiếp ứng của vương sư ào xuất trận.
Và:
Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn
Hiện ra như một vị thần linh;
Chớp mắt trên sông bặt sóng kình!
Thế là đã nơi này bỏ xác
Lũ con nuông của Trời Sa mạc
Khắp Á Âu từng vạn lý trường chinh.
Bọn chúng ngờ đâu một sớm cõi Ly minh,
Thân bách chiến bỗng quay về hạt cát;
Trôi theo sóng cả tiếng tăm nòi Thát Đát,
Cả giấc mơ xâm lược chúa Hồ Nguyên…

Chàm thích tay ai nét ảo huyền,
Ngọn trào pha máu sắc tươi duyên.
Chàm xanh, máu đỏ, nền sông trắng,
Bức vẽ Đông A vạn cổ truyền…

Ấy ai qua chốn giang biên,
Khói đầy khoang, giấc sầu miên lạnh lùng!
Tiếng kình vang đợt sóng rung,
Có nghe chăng?
     Có thẹn cùng người xưa?
Riêng ai: nước cũ mây mờ,
“Thái bình diên yến” câu thơ lệ nhoà.
Tháng Giêng kỷ niệm Đống đa
Sông Đằng kỷ niệm tháng Ba… mấy lần?
Đầu mùa xuân, cuối mùa xuân,
Cánh tay Đế Nguyễn Vương Trần nào ai?

(Sài-gòn, 1963)

*

“Trường Ca Sát Thát”: Hành Trình Khát Khao Của Lịch Sử Và Tinh Thần Quyết Thắng

Trường Ca Sát Thát của nhà thơ Vũ Hoàng Chương là một bài thơ sử thi đầy bi tráng và hào hùng, tái hiện lại những trang sử đầy khí phách của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là chiến thắng vĩ đại trong trận Bạch Đằng giang dưới sự lãnh đạo của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Bằng ngôn từ sắc bén, hình ảnh tươi mới và một giọng điệu mạnh mẽ, tác phẩm không chỉ khắc họa một khoảnh khắc lịch sử, mà còn truyền tải một thông điệp sâu sắc về lòng yêu nước, sức mạnh tinh thần và sự kiên cường của dân tộc trong cuộc chiến đấu bảo vệ bờ cõi.

Cuộc Xâm Lăng Tàn Bạo Và Lòng Kiên Cường Của Dân Tộc

Bài thơ mở đầu với hình ảnh đoàn quân xâm lược “mọc lên trong sa mạc,” mang theo những khí tài chiến tranh và khát khao chinh phục. Đoàn quân ấy, từ phương Đông với “lũ con nuông bất trị của Trời Xanh,” không chỉ mang theo những lời đe dọa và chiến tranh mà còn thể hiện sự hung hãn, tàn bạo trong mỗi bước đi. Hình ảnh “ngựa vọt tới đâu là đời sống tan tành” và “biển ngập máu” hiện lên như một cơn bão cuồng nộ, xóa sạch mọi sự sống và văn minh mà chúng gặp phải.

Nhưng rồi, như một lẽ tất yếu, sức mạnh vô biên của thiên nhiên và tinh thần dân tộc đã thúc đẩy một cuộc phản kháng mãnh liệt. Bài thơ mô tả sự thay đổi của thế cục: khi “Trời Nam riêng cõi thanh bình” không thể để cho kẻ xâm lược bước vào. Đoàn quân của Trần Hưng Đạo, với khí thế mạnh mẽ, đã đứng lên bảo vệ đất nước, đối mặt với quân xâm lược như những con sư tử dũng mãnh, mang theo sứ mệnh “nắm đầu giặc như chơi” và “cướp giáo giặc cũng dễ.”

Tinh Thần Quyết Thắng Và Hình Ảnh Về Hưng Đạo Đại Vương

Những đoạn thơ tiếp theo đưa người đọc vào trung tâm của chiến thắng lịch sử. Hình ảnh Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, một chiến lược gia tài ba, hiện lên như một thần linh, dẫn dắt quân đội vào trận chiến quyết liệt. “Lời Đại vương truyền nín cỏ cây” thể hiện sự trầm tĩnh và quyết đoán của một người lãnh đạo vĩ đại. Mỗi bước đi của ông, mỗi quyết định trong trận chiến đều mang một ý nghĩa sâu sắc, không chỉ bảo vệ đất nước mà còn là sự khẳng định về sức mạnh tinh thần và ý chí sắt đá của dân tộc.

Hình ảnh “Sông Bạch Đằng tôi có mặt đây!” vang lên như một lời thách thức, là biểu tượng của chiến thắng huyền thoại. Trong trận chiến này, sông Bạch Đằng không chỉ là một địa điểm, mà trở thành chứng nhân lịch sử, chứng kiến sự đổ vỡ của quân xâm lược và vinh quang của quân đội Trần. Đoàn thuyền giặc bị xô nghiêng, “xé ra từng mảnh, vỡ tan thây” – một hình ảnh đầy ám ảnh và mạnh mẽ, thể hiện sức mạnh vô song của quân dân Đại Việt.

Tinh Thần Dân Tộc Và Sự Tự Hào

Trường Ca Sát Thát không chỉ là một bài thơ về chiến tranh, mà còn là bản trường ca ca ngợi tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù phải đối mặt với những thế lực xâm lược hung hãn, người Việt Nam luôn biết cách đứng lên, bảo vệ Tổ quốc bằng tất cả sức mạnh và khát khao tự do. “Máu đào loang sóng Phú Lương mấy lần!” – câu thơ này không chỉ là sự khắc họa về trận chiến mà còn là một lời nhắc nhở về sự hy sinh không tiếc của những người con đất Việt, họ sẵn sàng đổ máu vì sự nghiệp bảo vệ đất nước.

Đoàn Kết Và Sức Mạnh Tinh Thần

Thông điệp quan trọng nhất mà Trường Ca Sát Thát gửi gắm chính là sức mạnh của đoàn kết. Quân dân đồng lòng, vua và tướng một lòng, tất cả cùng một ý chí để bảo vệ giang sơn. Cả dân tộc không lưỡng lự, không phân tán, mà cùng nhau chiến đấu trong một mặt trận chung, với một mục tiêu duy nhất: bảo vệ nền độc lập tự do. “Trần triều hai Thánh đế / Hưng Đạo một đại vương” là sự kết hợp của trí tuệ, sức mạnh và lòng quả cảm.

Hưng Đạo Đại Vương, với tầm nhìn chiến lược và sự quyết đoán, không chỉ là một nhà quân sự vĩ đại mà còn là một biểu tượng của niềm tự hào dân tộc, là minh chứng cho sức mạnh của một dân tộc dù nhỏ bé nhưng luôn kiên cường và bất khuất trước những thử thách.

Kết Luận: Bài Học Về Lòng Yêu Nước Và Quá Khứ Hào Hùng

Qua Trường Ca Sát Thát, Vũ Hoàng Chương không chỉ khắc họa lại một trận chiến lịch sử, mà còn truyền tải những bài học sâu sắc về lòng yêu nước, về sự kiên cường và tinh thần đoàn kết. Bài thơ là một lời nhắc nhở về sức mạnh của lịch sử, của những thế hệ đi trước đã không tiếc máu xương để bảo vệ quê hương. Và qua đó, mỗi chúng ta, dù ở đâu, dù trong thời đại nào, cũng cần phải giữ gìn và phát huy tinh thần ấy – tinh thần của sự kiên trì, đoàn kết và yêu nước vô bờ.

Trường Ca Sát Thát là một tác phẩm hào hùng, sâu sắc và mang đậm tính nhân văn, gợi nhớ về một thời kỳ lịch sử vàng son của dân tộc, đồng thời cũng là lời mời gọi chúng ta không bao giờ quên quá khứ, không bao giờ bỏ qua những giá trị mà chúng ta đã phải hy sinh để đạt được.

*

Vũ Hoàng Chương: Thi Bá của nền thi ca Việt Nam

Vũ Hoàng Chương (1915–1976), một nhà thơ lớn của Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học nước nhà qua những tác phẩm giàu cảm xúc và giá trị nghệ thuật. Sinh tại Nam Định, quê gốc ở làng Phù Ủng, tỉnh Hưng Yên, ông được mệnh danh là “Thi bá” Việt Nam, với phong cách thơ trang nhã, thấm đượm dư vị hoài cổ và đậm sắc thái phương Đông.

Hành trình cuộc đời và sự nghiệp

Từ nhỏ, Vũ Hoàng Chương đã được học chữ Hán tại nhà, sau đó học tiểu học tại Nam Định và trung học tại trường Albert Sarraut, Hà Nội. Năm 1937, ông đỗ Tú tài, nhưng hành trình học vấn của ông không dừng lại ở đó. Ông từng theo học Luật, rồi Cử nhân Toán, nhưng đều bỏ dở để đi làm và theo đuổi nghệ thuật.

Trong giai đoạn từ thập niên 1940, Vũ Hoàng Chương không ngừng sáng tác và hoạt động nghệ thuật. Ông cùng các văn nghệ sĩ nổi tiếng như Chu Ngọc, Nguyễn Bính thành lập Ban kịch Hà Nội, trình diễn các vở kịch thơ như Vân muội. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tiếp tục sáng tác và dạy học, đặc biệt gắn bó với Sài Gòn từ năm 1954.

Với tài năng vượt bậc, ông đã giành nhiều giải thưởng lớn, tiêu biểu là “Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc” năm 1959 với tập thơ Hoa đăng. Ông cũng đại diện Việt Nam tham dự nhiều hội nghị thi ca quốc tế, góp phần đưa thơ ca Việt Nam đến gần hơn với thế giới.

Năm 1972, Vũ Hoàng Chương được đề cử Giải Nobel Văn học. Dù không đoạt giải, việc ông xuất hiện trong danh sách đề cử cũng là niềm tự hào lớn cho văn học Việt Nam.

Di sản văn học

Vũ Hoàng Chương để lại cho đời nhiều tác phẩm xuất sắc, gồm cả thơ và kịch thơ. Những tập thơ như Thơ say (1940), Mây (1943), Hoa đăng (1959), hay Lửa từ bi (1963) thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật ngôn từ và cảm xúc mãnh liệt. Ông còn nổi tiếng với các vở kịch thơ như Vân muội, Trương Chi, góp phần đưa thể loại này phát triển tại Việt Nam.

Văn phong của Vũ Hoàng Chương được đánh giá là vừa sang trọng, vừa thấm đượm chất nhạc. Như nhận xét của Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam: thơ ông không chỉ là sự say sưa của cá nhân, mà còn gói ghém nỗi niềm nhân sinh, với những bi kịch và ngao ngán của kiếp người.

Cuộc đời cuối cùng và dấu ấn vĩnh cửu

Cuộc đời Vũ Hoàng Chương trải qua nhiều biến cố. Sau năm 1975, ông bị bắt giam tại khám Chí Hòa và qua đời năm 1976, khép lại một hành trình đầy thăng trầm nhưng rực rỡ. Mộ phần ông hiện nằm tại nghĩa trang chùa Giác Minh, Gò Vấp, nơi lưu giữ ký ức về một thi bá lớn của Việt Nam.

Với những đóng góp vượt thời đại, Vũ Hoàng Chương không chỉ là nhà thơ, nhà văn hóa mà còn là biểu tượng cho tinh thần nghệ thuật tự do và sáng tạo của Việt Nam. Di sản của ông sẽ mãi mãi được nhớ đến như một phần không thể thiếu của nền văn học dân tộc.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *