Bài thơ “Tức cảnh chiều thu” – Bà huyện Thanh Quan

Tức cảnh chiều thu

Bà huyện Thanh Quan

Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ.
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.

(Bài thơ này một số sách chép tác giả là Bà huyện Thanh Quan, một số sách chép là Hồ Xuân Hương. Ở văn bản Landes 1893, bài thơ này không có đầu đề và có lời dẫn: “Ngày xưa Xuân Hương đi chơi gặp mưa, vào chơi thăm làng Văn Giáp, thấy có một chùa xưa, Xuân Hương và chùa lậy Phật, rồi đi xem ngoài chùa. Thấy bên chùa có cây đa. Ngửng lên xem thì cao ngút không biết tới đâu, cho nên làm bài thơ này (cây đa này đến nay còn).”
Ở bản Đông Châu 1917, có lời dẫn: “Một ngày kia đang mùa quý thu, giời lún phún dăm ba hạt mưa, hơi ngăm ngăm rét, quan phủ nhân vô sự, mới sai bày cuộc rượu, cho gọi cô hai ra cùng ngồi uống rượu để vịnh thơ. Xuân Hương vâng lời ra ngồi hầu rượu để vịnh thơ. Xuân Hương vâng lời ra ngồi hầu rượu. Đương khi chén quỳnh đầy vơi, chiều thu hiu hắt, quan phủ liền bảo Xuân Hương vịnh bài tức cảnh. Thơ rằng: […]”

*

“Chiều Thu – Nét Đẹp Tự Tại và Sâu Lắng Qua Hồn Thơ Bà Huyện Thanh Quan”

Bài thơ “Tức cảnh chiều thu” của Bà Huyện Thanh Quan là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, đồng thời là sự hòa quyện giữa cảnh và tình, giữa vẻ đẹp giản dị của tự nhiên và cảm xúc sâu lắng trong tâm hồn thi nhân. Qua từng câu chữ, bài thơ không chỉ gợi lên sự yên bình, tĩnh lặng của một buổi chiều thu mà còn truyền tải triết lý sống tự tại, tìm niềm vui trong những điều bình dị.

Cảnh sắc chiều thu – bức tranh thiên nhiên tinh tế

Bài thơ mở đầu bằng âm thanh của những hạt mưa rơi:
“Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.”

Âm thanh “thánh thót” gợi cảm giác nhẹ nhàng, trong trẻo, như tiếng nhạc ngân lên giữa không gian yên tĩnh. Chỉ vài hạt mưa rơi đủ để tác giả cảm nhận vẻ đẹp “tiêu sơ” – một vẻ đẹp giản dị, thoáng chút u buồn mà rất đặc trưng của mùa thu.

Câu thơ không chỉ miêu tả cảnh mà còn thể hiện sự cảm thán của thi nhân trước bàn tay tạo hóa. Từ “khéo vẽ” như một lời ca ngợi thiên nhiên, khiến người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên sâu sắc của tác giả.

Thiên nhiên sống động qua đôi mắt thi nhân

Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ hiện lên rõ nét và sống động:
“Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.”

Hai câu thơ là sự đối lập màu sắc giữa xanh và trắng, giữa cổ thụ vững chãi và dòng sông phẳng lặng, tạo nên một bức tranh hài hòa và đầy chất thơ. Hình ảnh “xanh om cổ thụ” không chỉ gợi tả màu xanh đậm của lá cây mà còn mang lại cảm giác trầm mặc, cổ kính. Trong khi đó, “tràng giang trắng xóa” lại tạo cảm giác mênh mang, yên bình, như một tờ giấy lụa phẳng lặng in bóng trời thu.

Bằng bút pháp tinh tế, Bà Huyện Thanh Quan không chỉ tả cảnh mà còn gửi gắm vào đó những suy tư về sự trường tồn của thiên nhiên trước dòng chảy thời gian.

Tự tại trong tâm hồn nghệ sĩ

Hai câu thực tiếp theo phản ánh tâm thế của người thi sĩ giữa đất trời thu:
“Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ.”

Ở đây, hình ảnh “bầu rượu” và “túi thơ” là biểu tượng cho sự tự do và niềm đam mê của người nghệ sĩ. Tâm thế của thi nhân là sự hòa quyện giữa cảnh và tình, giữa chất thi vị và cuộc sống. “Say chấp rượu” không đơn thuần là sự vui thú với men say, mà là trạng thái đắm chìm trong vẻ đẹp của giang sơn, của thiên nhiên đất trời.

Hai câu thơ gợi lên triết lý sống tự tại, không màng danh lợi, chỉ tìm niềm vui trong thơ ca và sự tĩnh lặng của thiên nhiên. Đây cũng chính là nét đẹp trong phong thái của Bà Huyện Thanh Quan – một con người sống giữa thời loạn nhưng vẫn giữ được sự điềm nhiên, thanh cao.

Cảnh và người – sự hòa quyện tuyệt đẹp

Hai câu kết của bài thơ đưa ta đến với sự đồng điệu giữa cảnh vật và tâm hồn thi nhân:
“Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.”

Ở đây, cảnh không chỉ là cảnh, mà còn là tâm trạng, là cảm xúc của con người. Thiên nhiên qua đôi mắt thi nhân như có hồn, như thấu hiểu và đồng cảm với lòng người. Câu hỏi tu từ “ai mà chẳng ngẩn ngơ” như một lời khẳng định: trước vẻ đẹp của tự nhiên, con người không thể không rung động, không thể không suy tư.

Thông điệp của bài thơ Tức cảnh chiều thu

Tức cảnh chiều thu không chỉ đơn thuần là bức tranh tả cảnh mà còn gửi gắm một thông điệp sâu sắc về triết lý sống. Trong cuộc đời đầy biến động, con người vẫn có thể tìm thấy niềm vui và sự thanh thản từ những điều giản dị nhất – một buổi chiều thu, một bức tranh thiên nhiên yên bình.

Bài thơ nhắc nhở chúng ta trân trọng những khoảnh khắc hiện tại, tìm niềm vui từ sự hòa hợp với thiên nhiên và cảm nhận sâu sắc giá trị của cuộc sống bình yên, tự tại.

Lời kết

Tức cảnh chiều thu là một trong những tác phẩm thể hiện rõ tài năng của Bà Huyện Thanh Quan trong việc kết hợp giữa tả cảnh và biểu cảm. Qua bài thơ, người đọc không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thấu hiểu được tâm hồn thanh cao, yêu thiên nhiên và yêu cuộc sống của tác giả.

Bài thơ là một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng nhưng sâu sắc: dù cuộc đời có đổi thay, hãy tìm niềm vui trong những điều bình dị, bởi thiên nhiên luôn là người bạn đồng hành đáng quý của con người.

*

Bà huyện Thanh Quan – Tài năng thi ca và tâm hồn nữ nhi vang vọng trong lịch sử văn học Việt Nam

Bà Huyện Thanh Quan (1805–1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một trong những nữ thi nhân hiếm hoi để lại dấu ấn sâu sắc trong nền văn học Việt Nam thời cận đại. Sinh ra tại phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận – một vùng đất bên Hồ Tây nên thơ, bà mang trong mình sự nhạy cảm tinh tế trước thiên nhiên và thời cuộc. Những gì thuộc về cuộc đời, tài năng và sự nghiệp của bà, dù ít ỏi, nhưng lại lan tỏa giá trị lâu dài, ghi dấu ấn khó phai trong lòng hậu thế.

Từ gốc rễ trí tuệ đến hành trình làm vợ, làm quan phu nhân

Nguyễn Thị Hinh sinh trưởng trong một gia đình nho học danh giá. Cha bà, Nguyễn Lý, là một nhà khoa bảng xuất sắc, đỗ Thủ khoa dưới triều vua Lê Hiển Tông. Được học trò nổi tiếng của cụ là Phạm Quý Thích trực tiếp dạy dỗ, bà đã sớm bộc lộ tư chất thông minh và tình yêu đặc biệt dành cho văn chương.

Là vợ của ông Lưu Nghị – một vị quan huyện tài hoa và đức độ, bà trở thành “Bà Huyện Thanh Quan” khi ông làm tri huyện Thanh Quan (nay thuộc Thái Bình). Dẫu vậy, cuộc đời bà không tránh khỏi những bất hạnh. Ông Lưu Nghị mất sớm ở tuổi 43, để lại bà cùng bốn người con trong cảnh cô quạnh. Sau sự ra đi của chồng, bà từ bỏ chốn quan trường và sống cuộc đời ẩn dật bên Hồ Tây, giữ trọn lòng thủy chung, vượt qua nỗi đau bằng tâm hồn thanh tao và sáng tác thi ca.

Một tâm hồn thơ trác việt

Sự nghiệp thơ ca của Bà Huyện Thanh Quan tuy để lại rất ít tác phẩm, nhưng mỗi bài thơ đều là viên ngọc quý, kết tinh từ tài năng và chiều sâu tư tưởng. Sáng tác của bà chủ yếu được viết bằng chữ Nôm, với thể thơ Đường luật trang nghiêm, chuẩn mực. Trong thơ bà, cảm xúc hoài cổ, thương nước, nhớ nhà và nỗi buồn sâu lắng trước thế sự được thể hiện một cách tinh tế qua hình ảnh thiên nhiên u nhã mà thấm đượm tâm trạng.

Các tác phẩm như Qua đèo Ngang, Thăng Long hoài cổ, Chiều hôm nhớ nhà… không chỉ bộc lộ vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên mà còn phản chiếu tấm lòng yêu nước thương dân, nỗi niềm trăn trở trước sự suy vi của thời cuộc.

“Qua đèo Ngang”, bài thơ nổi tiếng nhất của bà, là đỉnh cao của nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh thơ, lột tả sâu sắc tâm trạng cô đơn của một nữ thi sĩ giữa cảnh đất trời bao la mà lòng lại quặn thắt nỗi nhớ nước, nhớ nhà:
“Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.”

Người phụ nữ tài hoa giữa thời thế biến động

Dù sống trong thời kỳ Nho giáo khắt khe, Bà Huyện Thanh Quan không chỉ nổi bật bởi tài năng thi ca mà còn bởi vai trò là một nhà giáo dục. Dưới triều vua Minh Mạng, bà được mời vào cung làm Cung trung giáo tập, dạy học cho các công chúa và cung phi. Vị trí này không chỉ khẳng định học vấn uyên thâm mà còn là minh chứng cho tài đức và phẩm chất của bà.

Tuy nhiên, cuộc đời của bà cũng là một chuỗi những mất mát và bi kịch. Sau khi chồng qua đời, bà sống trong cảnh góa bụa, lặng lẽ chăm sóc con cái và giữ gìn phẩm giá. Cuộc đời bà khép lại ở tuổi 43, nhưng hình ảnh người nữ thi sĩ tài hoa vẫn sống mãi trong lòng người đọc qua từng câu chữ.

Di sản văn học vượt thời gian

Bà Huyện Thanh Quan đã để lại cho văn học Việt Nam những áng thơ bất hủ. Tác phẩm của bà không chỉ là sự kết hợp tuyệt vời giữa ngôn ngữ trang nhã và nghệ thuật tạo hình, mà còn mang giá trị nhân văn sâu sắc.

Thơ của bà gợi lên nỗi buồn man mác, đầy nhân bản, đồng thời khơi dậy lòng yêu nước, yêu quê hương. Chính sự hòa quyện giữa tình yêu thiên nhiên, lòng hoài cổ và khát vọng tự do đã khiến tên tuổi của bà vượt lên trên mọi khuôn khổ thời gian, trở thành một biểu tượng đẹp trong lịch sử văn học Việt Nam.

Lời kết

Dù cuộc đời ngắn ngủi và tác phẩm không nhiều, nhưng Bà Huyện Thanh Quan đã để lại dấu ấn lớn trong văn hóa và văn học nước nhà. Bà không chỉ là một nữ thi nhân tài năng mà còn là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam – thanh tao, sâu sắc và đầy nghị lực.

Những vần thơ của bà, qua bao thế kỷ, vẫn vang vọng như tiếng nói từ cõi lòng của một tâm hồn yêu nước, yêu quê hương, và luôn khắc khoải với nỗi niềm nhân thế. Bà Huyện Thanh Quan mãi mãi là một ngôi sao sáng trong bầu trời văn học Việt Nam, nơi vẻ đẹp ngôn từ hòa quyện với tinh thần dân tộc.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *