Vào chùa
Đang trưa ăn mày vào chùa
Sư ra cho một lá bùa rồi đi
Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày.
*
Bài thơ Vào chùa của Đồng Đức Bốn tuy ngắn gọn, nhưng lại chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc về cuộc đời, tín ngưỡng, và thân phận con người. Kể từ khi ra đời, “Vào chùa” đã tạo ra một cơn sốt cho người đọc với nhiều ý kiến và cung bậc cảm xúc khác nhau.
Hành Trình Đốn Ngộ và Biểu Tượng Thiền Trong Bài Thơ Vào Chùa
Theo nhà văn Nguyễn Huy Thiệp trong Giăng lưới bắt chim (Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2006) thì “Đồng Đức Bốn xuất hiện trong làng thơ Việt Nam khoảng 10 năm nay, viết chừng 80 bài thơ, trong đó có tới trên dưới 15 bài thơ được khách sành văn chương xếp vào loại “cực hay, tài tử vô địch” (trang 97). Bài thơ Vào chùa là một trong số đó. Bài thơ này được in trong tập thơ “Trở về với mẹ ta thôi” do nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành năm 2000.
Nguyễn Huy Thiệp nhìn nhận bài thơ dưới góc độ Thiền học, nơi mỗi hình ảnh và chi tiết đều mang tính chất biểu tượng. Ông cho rằng, hành trình của kẻ ăn mày bước vào chùa là một phút “đốn ngộ,” nhưng chính kẻ ấy không nhận thức được sự biến đổi bên trong mình sau khi nhận lá bùa từ nhà sư. Dưới góc nhìn này, “đang trưa” không chỉ là thời điểm cụ thể trong ngày mà còn ẩn dụ cho giai đoạn “giữa đời người,” lúc con người đạt tới sự tỉnh ngộ hoặc bước vào trạng thái suy tư sâu sắc. Tuy nhiên, cái “tỉnh ngộ” mà Nguyễn Huy Thiệp diễn giải lại thiên về lý tưởng hóa và mang hơi hướng tôn giáo mạnh mẽ.
Hiện Thực Đời Thường và Giọng Điệu Châm Biếm Trong Thơ Đồng Đức Bốn
Trong “Đọc lại bài thơ Vào chùa của Đồng Đức Bốn”, Nguyễn Trọng Bình tiếp cận bài thơ bằng lăng kính hiện thực hơn. Ông không cho rằng bài thơ mang tính Thiền học mà nhấn mạnh yếu tố “đời” trong những hình ảnh ăn mày, nhà sư và lá bùa. Theo ông, Đồng Đức Bốn muốn phơi bày sự tương phản giữa nhu cầu thực tế của người ăn mày và những giải pháp mang tính siêu hình của nhà sư. Lá bùa, một biểu tượng tôn giáo nhưng vô nghĩa với kẻ đang đói, cho thấy sự xa cách giữa lý tưởng tôn giáo và hiện thực cuộc sống. Nguyễn Trọng Bình còn tinh tế nhận ra giọng điệu châm biếm trong thơ, khi Đồng Đức Bốn khéo léo phê phán cả tôn giáo và xã hội.
Giao thoa Đạo và Đời trong bài thơ “Vào Chùa” của Đồng Đức Bốn
Theo chúng tôi, bài thơ là sự giao thoa giữa “đạo” và “đời,” giữa tâm linh và hiện thực. Hình ảnh ăn mày chính là biểu tượng cho con người nói chung, nhỏ bé và bất lực trước dòng đời. Nhà sư với lá bùa tượng trưng cho những niềm tin tôn giáo hoặc giải pháp siêu hình, đôi khi xa rời thực tế. Việc ăn mày nhận lá bùa nhưng rồi “nhét túi lại đi ăn mày” không hẳn là sự vô tâm, mà là một phản ánh chân thực về bản chất con người: khi đói khát, họ cần cơm áo hơn là lời khuyên hay phép màu.
Bài thơ đặt ra câu hỏi lớn hơn: Liệu tôn giáo có thể đáp ứng những khổ đau đời thường, hay chỉ là một niềm an ủi xa xăm? Đồng thời, nó cũng thử thách cả người đọc: chúng ta, khi đứng trước những khổ đau và bất công của người khác, liệu có đủ nhạy cảm để thấu hiểu và giúp đỡ đúng cách, hay cũng chỉ trao đi những “lá bùa” vô nghĩa?
Có lẽ, Đồng Đức Bốn không chỉ phê phán tôn giáo hay xã hội, mà ông còn muốn nói đến sự bất lực của chính chúng ta trong việc thoát khỏi vòng lặp số phận. Lá bùa trong bài thơ, với ba lần lặp từ “ăn mày,” chính là một vòng tròn luẩn quẩn, ám chỉ rằng dù có được trao đi bất kỳ phương tiện hay cơ hội nào, nếu không tự mình nhận ra giá trị, con người vẫn bị cuốn vào kiếp luân hồi của đau khổ.
Từ đó, bài thơ còn là một lời nhắn nhủ sâu sắc:Tôn giáo không phải là lời giải duy nhất. Chính con người cần nhận ra sức mạnh tự thân để thay đổi số phận.
“Vào chùa” vừa là bài thơ mang tính hiện thực, vừa là bài thơ triết học. Đồng Đức Bốn không cố gắng đưa ra câu trả lời, nhưng ông khéo léo gợi mở để độc giả suy ngẫm về giá trị của niềm tin, ý nghĩa của cuộc sống, và mối tương quan giữa đạo và đời. Trong sự dung hòa ấy, bài thơ không chỉ phản ánh kiếp nhân sinh mà còn vượt lên, trở thành một áng thơ tứ tuyệt đầy ám ảnh và nhân văn.
*
Về tác giả Đồng Đức Bồn
Nhà thơ Đồng Đức Bốn (30/3/1948 – 14/2/2006) được sinh ra trong một gia đình lao động nghèo ở ngoại ô Hải Phòng. Năm 1966, ông gia nhập lực lượng Thanh niên xung phong. Sau đó, ông làm thợ cơ khí (bậc 6 trên 7) tại Xí nghiệp Cơ giới của Tổng Công ty Xây dựng Bạch Đằng (Hải Phòng), Xí nghiệp Cơ khí 20-7 rồi Công ty Xuất nhập khẩu gia cầm Hải Phòng. Ông được làm đại diện cho công ty này tại Hà Nội và bắt đầu sáng tác thơ vào cuối những năm 1980. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Đồng Đức Bốn mất ngày 14 tháng 2 năm 2006 tại nhà riêng ở thôn Song Mai, xã An hồng, huyện An Hải, Thành phố Hải Phòng khi ông 58 tuổi bởi bệnh ung thư phổi.
Đồng Đức Bốn có nhiều đóng góp quan trọng trong thể loại thơ lục bát. Thơ lục bát của ông với cách ngắt nhịp, dùng từ và rất giàu hình ảnh với tứ thơ sâu sắc đã chinh phục được bạn đọc. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nhận xét về thơ của ông là trong khoảng 80 bài thơ, có khoảng 15 bài thơ cực hay, tài tử vô địch.
Tác phẩm:
– Nhà thờ (1986)
– Con ngựa trắng và rừng quả đắng (NXB Văn học, 1992)
– Chăn trâu đốt lửa (NXB Lao động, 1993)
– Trở về với mẹ ta thôi (NXB Hội nhà văn, 2000)
– Cuối cùng vẫn còn dòng sông (NXB Hội nhà văn, 2000)
– Chuông chùa kêu trong mưa (2002)
– Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (2006)
Viên Ngọc Quý.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Huy Thiệp – Giăng lưới bắt chim. Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2006
2. Đọc lại bài thơ Vào chùa của Đồng Đức Bốn – Nguyễn Trọng Bình.
3. Đồng Đức Bốn – Wikipedia Tiếng Việt.