Bài thơ Việt Bắc
Tố Hữu
-Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
– Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
– Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.
– Nước trôi nước có về nguồn
Mây đi mây có cùng non trở về?
Mình về, ta gửi về quê
Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai
Nâu này nhuộm áo không phai
Cho lòng thêm đậm, cho ai nhớ mình.
Trâu về, xanh lại Thái Bình
Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi.
– Nước trôi, lòng suối chẳng trôi
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà.
Nứa mai mình gửi quê nhà
Nước non đâu cũng là ta với mình.
Thái Bình đồng lại tươi xanh
Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui…
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi, ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?
– Đường về, đây đó gần thôi!
Hôm nay rời bản về nơi thị thành
Nhà cao, chẳng khuất non xanh
Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường.
Ngày mai về lại thôn hương
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về.
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.
Mái trường ngói mới đỏ tươi
Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng
Muối Thái Bình ngược Hà Giang
Cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh.
Ai về mua vại Hương Canh
Ai lên mình gửi cho anh với nàng
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông
Áo em thêu chỉ biếc hồng
Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi
Còn non, còn nước, còn trời
Bác Hồ thêm khoẻ, cuộc đời càng vui!
– Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người…
– Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
(Tố Hữu – SGK Ngữ văn 12 – Tập 1)
*
Cảm nhận về bài thơ “Việt Bắc” Tố Hữu
Bài thơ Việt Bắc Tố Hữu là một bản trường ca đậm chất trữ tình chính trị, thể hiện sâu sắc tình nghĩa giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc – căn cứ địa cách mạng trong suốt 15 năm gian khổ nhưng hào hùng. Tác phẩm không chỉ là lời tâm tình của một cuộc chia tay đầy lưu luyến mà còn là khúc ca ca ngợi tinh thần đoàn kết, yêu nước và niềm tin tất thắng vào tương lai.
Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, không khí chia tay hiện lên đầy xúc cảm qua lời đối đáp ngọt ngào, mộc mạc:
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Tố Hữu đã mượn lời của Việt Bắc để bày tỏ nỗi lòng, nhắc nhớ người ra đi về những tháng ngày kháng chiến gian khó nhưng thắm đượm tình nghĩa. Lời thơ vừa như trách móc nhẹ nhàng, vừa như nhắc nhở ân tình, gợi lên hình ảnh núi rừng Việt Bắc gắn bó máu thịt với con người. Câu hỏi tu từ “Mình có nhớ ta?” lặp đi lặp lại tạo nên nhịp điệu thủ thỉ, như lời ru dịu dàng vang vọng giữa núi rừng.
Tình nghĩa Việt Bắc không chỉ là những kỷ niệm gian khổ mà còn là những giá trị tinh thần cao đẹp. Hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “miếng cơm chấm muối” hay “chăn sui đắp cùng” đã khắc họa rõ nét cuộc sống đầy thiếu thốn nhưng chan chứa tình người trong những năm tháng kháng chiến. Chính tình nghĩa ấy đã hun đúc nên sức mạnh đoàn kết, giúp dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Một điểm đặc biệt trong “Việt Bắc” là sự đan xen giữa cảm xúc cá nhân và niềm tự hào dân tộc. Tố Hữu đã tái hiện không khí hào hùng của kháng chiến qua những câu thơ đầy hình ảnh:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.”
Hình ảnh “đất rung” và “quân đi điệp điệp trùng trùng” tái hiện khí thế oai hùng của những đoàn quân ra trận. Ánh sáng “đầu súng” không chỉ là biểu tượng của hy vọng mà còn gợi lên niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng. Tác giả đã khéo léo hòa quyện chất sử thi và chất trữ tình, tạo nên một không khí vừa sục sôi, vừa lắng đọng.
Không chỉ ngợi ca chiến công, “Việt Bắc” còn là bản tình ca của thiên nhiên và con người. Những hình ảnh hoa chuối đỏ tươi, rừng phách vàng rực, cô gái hái măng hay người mẹ bẻ bắp ngô đều hiện lên rất sống động và giàu chất thơ. Qua đó, Tố Hữu không chỉ thể hiện tình yêu quê hương đất nước mà còn ca ngợi vẻ đẹp giản dị, thuần khiết của cuộc sống nơi núi rừng.
Ở phần cuối bài thơ, tác giả mở ra viễn cảnh tươi sáng của đất nước sau ngày hòa bình. Những hình ảnh “mái trường ngói mới”, “phố phường như nấm như măng” hay “muối Thái Bình ngược Hà Giang” là biểu tượng của sự hồi sinh, phát triển, khẳng định niềm tin vào tương lai thịnh vượng.
Tổng thể, “Việt Bắc” không chỉ là lời tâm tình giữa người đi và kẻ ở mà còn là khúc hùng ca về tinh thần yêu nước, đoàn kết và niềm tin vào Đảng và cách mạng. Với giọng thơ ngọt ngào, sâu lắng, tác phẩm đã khơi dậy trong lòng người đọc tình cảm yêu thương, trân trọng quá khứ hào hùng và niềm tin mãnh liệt vào tương lai đất nước. “Việt Bắc” chính là minh chứng cho tài năng xuất sắc và tấm lòng tha thiết của Tố Hữu dành cho quê hương, cách mạng và nhân dân.
*
Về nhà thơ Tố Hữu
Tố Hữu (1920–2002), tên thật là Nguyễn Kim Thành, là một nhà thơ lớn và nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của Việt Nam. Ông quê ở Thừa Thiên Huế, từ nhỏ đã sớm tham gia phong trào cách mạng và gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1938.
Thơ Tố Hữu mang đậm chất trữ tình chính trị, kết hợp hài hòa giữa cảm xúc cá nhân và lý tưởng cách mạng. Các tác phẩm tiêu biểu như “Từ ấy“, “Việt Bắc”, “Gió lộng” đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả bởi ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gần gũi và tinh thần lạc quan, yêu nước.
Ngoài sự nghiệp văn chương, Tố Hữu còn giữ nhiều vị trí quan trọng trong chính quyền cách mạng. Ông được vinh danh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn học cách mạng Việt Nam.
Viên Ngọc Quý.