Phòng hộ chuyển hoá
Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao nghiệp chướng bởi lầm mê
Vào ra sinh tử biết bao lần
Nay đến trước đài
Vô Thượng Giác.
Biển trần khổ lâu đời trôi giạt
Hôm nay trông thấy Đạo huy hoàng
Con hướng về theo ánh từ quang
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước.
Bao tội khổ trong đời ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Hôm nay đây khẩn thiết thệ nguyền
Xin sám hối để lòng thanh thoát
Trí tuệ quang minh như nhật nguyệt
Từ bi vô lượng cứu quần sanh
Con nhất tâm nguyện sống đời lành
Đem thân mạng nương nhờ Tam Bảo
Lên thuyền Từ vượt qua biển Khổ
Cầm đuốc thiêng ra khỏi rừng Mê
Văn, Tư, Tu xin quyết hành trì
Thân, Miệng, Ý noi về chánh kiến
Đi đứng nằm ngồi trong chánh niệm
Vào ra cười nói tướng đoan nghiêm
Mỗi khi tâm buồn giận lo phiền
Nguyện nhiếp niệm trở về hơi thở
Mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ
Mỗi cái nhìn thấy được Pháp thân
Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần
Đem ý thức tinh chuyên phòng hộ
Tập khí năm xưa rồi chuyển hoá
Vườn tâm tuệ giác nở trăm hoa
Niềm an vui đem khắp mọi nhà
Hạt giống tốt gieo về muôn lối
Cùng tăng thân xin nguyền ở lại
Nơi cõi đời làm việc độ sanh
Giờ phút này sông núi chứng minh
Cúi xin đức Từ Bi nhiếp thọ.
(Sám Nguyện gồm sám hối và phát nguyện. Sám là bắt đầu trở lại, sẽ không gây ra thêm những lỡ lầm và vụng dại như đã gây ra trong quá khứ. Nguyện là quyết tâm không làm những điều đã từng gây ra đổ vỡ, quyết tâm làm những điều có thể đưa tới sự an lạc cho ta và cho người. Sám nguyện của Thiền sư Nhất Hạnh gồm tuyển tập 20 bài thi ca với nội dung như: tán thán ca ngợi chư Phật, phản quang tự kỷ, những lời ích kỷ lợi tha…)
*
“Trở Về Ánh Sáng” – Sám nguyện phòng hộ và chuyển hoá giữa cõi người
Giữa biển khổ luân hồi, nơi con người mải mê trong tham, sân, si mà đánh mất lối về, bài sám nguyện “Phòng hộ chuyển hoá” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh cất lên như một tiếng chuông tỉnh thức, vừa khiêm cung sám hối, vừa vững chãi phát nguyện, đưa ta về lại với con đường của tỉnh thức, của hiểu biết và thương yêu.
“Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao nghiệp chướng bởi lầm mê
Vào ra sinh tử biết bao lần
Nay đến trước đài Vô Thượng Giác.”
Bằng những câu thơ đơn sơ mà chân thành, Thiền sư khơi lại cội nguồn mê lầm của con người – không phải vì ác tâm mà vì vô minh, vì lâu đời sống trong quên lãng, đánh mất chánh niệm. Nhưng ngay nơi sự nhận ra đó, ánh sáng của Đạo hiện ra, là ngọn đèn từ bi của chư Phật, là bàn tay mời gọi quay về từ cõi lãng quên.
“Biển trần khổ lâu đời trôi giạt
Hôm nay trông thấy Đạo huy hoàng
Con hướng về theo ánh từ quang
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước.”
Không có gì cao sang hay huyền bí, mà chính sự quay đầu là điểm khởi đầu của sự giải thoát. Trong ánh “từ quang” ấy, người con Phật không chỉ khẩn thiết sám hối những lầm lỡ đã qua, mà còn phát nguyện sống một đời tỉnh thức, tỉnh tại trong từng hành động, lời nói, ý nghĩ.
“Hôm nay đây khẩn thiết thệ nguyền
Xin sám hối để lòng thanh thoát
Trí tuệ quang minh như nhật nguyệt
Từ bi vô lượng cứu quần sanh.”
Không phải sự sám hối trong mặc cảm, mà là sám hối trong trí tuệ và từ bi, để từ đó, mỗi hành động đều trở thành chất liệu nuôi dưỡng sự tỉnh thức và lòng yêu thương chân thật. Thiền sư không nói đến con đường khổ hạnh hay viễn ly thế gian – ngược lại, Ngài đưa ta vào giữa đời sống thường nhật, để thực tập:
“Đi đứng nằm ngồi trong chánh niệm
Vào ra cười nói tướng đoan nghiêm
Mỗi khi tâm buồn giận lo phiền
Nguyện nhiếp niệm trở về hơi thở.”
Đó là phép lạ của chánh niệm – khi ta biết trở về với hơi thở trong những lúc yếu lòng, khi biết mỉm cười với chính mình thay vì để giận dữ kéo đi, thì lúc ấy, ta đã thực sự bước vào cõi Tịnh Độ ngay trong cõi người. Tịnh Độ không cần đợi đến sau cái chết, mà có mặt trong mỗi bước chân an trú, trong mỗi cái nhìn từ bi, mỗi hành xử có tỉnh thức.
“Tập khí năm xưa rồi chuyển hoá
Vườn tâm tuệ giác nở trăm hoa
Niềm an vui đem khắp mọi nhà
Hạt giống tốt gieo về muôn lối.”
Thông điệp của bài sám nguyện thật rõ ràng: chuyển hóa không đến từ sự cưỡng ép hay né tránh, mà từ sự thấy rõ chính mình trong ánh sáng của chánh niệm và thương yêu, từ việc chăm sóc từng tâm niệm, từng thói quen, từng động niệm nhỏ nhoi như chăm một mảnh vườn.
“Cùng tăng thân xin nguyền ở lại
Nơi cõi đời làm việc độ sanh”
Tịnh Độ không phải để trốn thoát cuộc đời, mà là để ở lại với cuộc đời này bằng trái tim không còn mê mờ. Người con Phật không cầu riêng mình an lạc, mà mong đem ánh sáng tuệ giác đến muôn nơi, cùng “tăng thân” – những người bạn đồng hành – gieo trồng bình an trong lòng thế giới.
“Phòng hộ chuyển hoá” không chỉ là một lời nguyện, mà là một phương pháp sống. Làm sao để từng bước chân, từng hơi thở, từng tiếp xúc với cuộc đời đều là cơ hội để chuyển hóa, để từ cõi mê vươn tới tỉnh, từ cõi khổ bước vào an vui. Với ngôn từ dung dị mà thiết tha, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đưa ta trở về với điều cốt tủy của đạo Bụt: hiểu – thương – và thực tập trong hiện tại.
Bài sám này, như một bản đồ tâm linh giữa những chao đảo cuộc đời, chỉ cần lắng nghe bằng trái tim, ta sẽ biết đường về, nơi Tịnh Độ không ở đâu khác – chính là giây phút này, khi ta đã thật sự tỉnh thức.
*
Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.
Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.
Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.
Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.
Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100m2 được đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.
Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.
Viên Ngọc Quý