Sám quy mạng
Quy mạng mười phương Vô Thượng Giác
Pháp mầu vi diệu đã tuyên dương
Thánh tăng bốn quả ba thừa độ
Duỗi cánh tay vàng nguyện xót thương.
Ngược dòng chân tính từ lâu,
Chúng con trôi nổi biển sầu sông mê.
Thấy đâu lối thoát đường về,
Bập bềnh sóng nước chưa hề đoái lui.
Nguyên nhân hữu lậu gây rồi,
Bao nhiêu nghiệp chướng lâu đời tạo ra.
Biết đâu nẻo chính đường tà,
Oan khiên nghiệp báo thật là nặng sâu.
Nay con khẩn thiết cúi đầu,
Phơi bày sám hối cần cầu Hồng ân.
Chí thành cầu đấng Năng Nhân,
Từ bi cứu vớt trầm luân mọi loài.
Nguyện cùng thiện hữu ra khơi,
Tìm lên bờ giác lìa nơi não phiền.
Kiếp này xin nguyện xây thêm
Cao toà phúc đức vững nền đạo tâm.
Chờ mong đạo nghiệp vun trồng,
Từ bi, trí tuệ nẩy mầm tốt tươi.
Kiếp sau xin được làm người,
Sinh ra gặp pháp sống đời chân tu.
Dắt dìu nhờ bậc minh sư,
Nương vào chính tín hạnh từ xuất gia.
Sáu căn ba nghiệp thuần hoà,
Không vương tục luỵ theo đà thế nhân.
Một lòng tấn đạo nghiêm thân,
Giữ gìn phạm hạnh nghiệp trần lánh xa.
Oai nghi phong độ chói loà,
Lòng từ hộ mạng trước là vi sinh.
Lại thêm đầy đủ duyên lành,
Bao nhiêu tai nạn biến thành hư không.
Bồ Ðề nguyện kết một lòng,
Ðài sen Bát Nhã Chân Không hiện tiền.
Nhờ công tu tập tinh chuyên,
Ðại Thừa liễu ngộ chứng truyền chân tâm.
Thoát ngoài kiếp hải trầm luân,
Hoằng khai lục độ hạnh môn cứu người.
Ðạo tràng dựng khắp nơi nơi,
Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không.
Tà ma hàng phục đến cùng,
Truyền đăng Phật pháp nối dòng vô chung.
Vâng làm Phật sự mười phương,
Không vì lao nhọc, nản lòng tinh chuyên.
Bao nhiêu diệu pháp thâm huyền,
Thảy đều thực hiện siêu nhiên độ mình.
Rồi đem phúc tuệ độ sinh,
Chứng nên Phật quả, hoàn thành Pháp thân.
Tuỳ cơ ứng biến cõi trần,
Phân thân vô số độ dần chúng sinh.
Nước Từ rưới khắp nhân thiên,
Mênh mông biển Hạnh lời nguyền độ tha.
Khắp hoà thế giới gần xa,
Diễn dương diệu pháp, trước là độ sinh.
Những nơi khổ thú trầm luân,
Hào quang chiếu diệu hiện thân tốt lành.
Chỉ cần thấy dạng nghe danh,
Muôn loài thoát khỏi ngục hình đớn đau.
Phát lời nguyện ước cao sâu
Muôn nghìn khổ địa thảy đều tiêu tan.
Bao nhiêu nghiệp trái hàm oan,
Bao nhiêu đau khổ trong hàng súc sinh,
Ðều nhờ thần lực oai linh,
Sương tan núi biếc bình minh rạng ngời.
Thuốc thang cứu cấp cho đời,
Áo cơm cứu giúp cho người bần dân.
Bao nhiêu lợi ích hưng sùng,
An vui thực hiện trong vòng trầm luân.
Bao nhiêu quyến thuộc thân oan
Cũng nguyền vượt biển trần gian nổi chìm.
Xa lìa ái nhiễm liên miên,
Ðoạn trừ những mối phược triền thân tâm.
Vun trồng đạo nghiệp thiện nhân,
Cùng bao loài khác pháp thân hướng về.
Hư không dù có chuyển di,
Nguyện con muôn kiếp không hề lung lay.
Nguyện cầu vạn pháp xưa nay,
Hoàn thành trí nghiệp vững cây Bồ Ðề.
(Sám Nguyện gồm sám hối và phát nguyện. Sám là bắt đầu trở lại, sẽ không gây ra thêm những lỡ lầm và vụng dại như đã gây ra trong quá khứ. Nguyện là quyết tâm không làm những điều đã từng gây ra đổ vỡ, quyết tâm làm những điều có thể đưa tới sự an lạc cho ta và cho người. Sám nguyện của Thiền sư Nhất Hạnh gồm tuyển tập 20 bài thi ca với nội dung như: tán thán ca ngợi chư Phật, phản quang tự kỷ, những lời ích kỷ lợi tha…)
*
“Nguyện Làm Giọt Nước Từ Trong Biển Hạnh”
Trong ánh sáng dịu dàng của thiền môn, giữa hương trầm thanh khiết và tiếng chuông tỉnh thức vang vọng, bài “Sám quy mạng” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh cất lên như một khúc thi ca linh thiêng – vừa là lời nguyện tâm linh, vừa là bản hùng ca của một người con Phật quyết chí tu hành để độ mình và độ đời. Mỗi vần thơ không chỉ là tiếng lòng sám hối, mà còn là tuyên ngôn thiêng liêng của con đường Bồ Tát đạo, với tâm nguyện rộng lớn như hư không, trải dài như ánh sáng vô lượng.
“Quy mạng mười phương Vô Thượng Giác
Pháp mầu vi diệu đã tuyên dương”
Bắt đầu bằng lời quy kính ba ngôi Tam Bảo, bài sám dẫn ta trở về nơi nương tựa sâu xa nhất – nơi có ánh sáng của Vô Thượng Giác, có con đường của Pháp diệu nhiệm, và có chư vị Thánh Tăng như những người thầy sáng soi giữa đêm tối vô minh. Chính nơi ấy, người con Phật cúi đầu sám hối, bộc bạch tất cả những lỗi lầm, những nổi trôi bao kiếp:
“Ngược dòng chân tính từ lâu,
Chúng con trôi nổi biển sầu sông mê”
Không quanh co, không biện minh, lời sám là tiếng nói chân thật từ tận đáy tâm can – từ một kẻ lưu lạc lâu đời trong mê lộ, đánh mất lối về với bản tâm thanh tịnh. Trong biển khổ trầm luân ấy, có những nghiệp chướng nặng sâu, có những hành vi mù quáng, có những tổn thương gây ra bởi không hiểu và không thương.
“Nay con khẩn thiết cúi đầu,
Phơi bày sám hối cần cầu Hồng ân”
Nhưng sám hối không phải là tuyệt vọng, mà là khởi điểm cho hành trình trở về, cho sự chuyển hóa bằng từ bi và trí tuệ. Từ nỗi đau rơi rụng là những mầm mống của tỉnh thức được ươm lên. Người sám hối không đứng đó mãi với mặc cảm, mà bắt đầu bước đi với khát vọng phụng sự và giải thoát:
“Kiếp này xin nguyện xây thêm
Cao toà phúc đức vững nền đạo tâm”
Lời nguyện không chỉ cho đời này mà lan tới cả muôn kiếp tương lai – một ý chí bền bỉ, sắt son như cội Bồ Đề trước gió bão vô minh, nơi con nguyện làm người, xuất gia tu học, giữ giới nghiêm thân, dâng hiến cả cuộc đời để phụng sự và dẫn đường cho chúng sinh:
“Bồ Đề nguyện kết một lòng,
Đài sen Bát Nhã Chân Không hiện tiền”
Đó là viễn tượng cao cả mà Thiền sư Thích Nhất Hạnh không chỉ viết bằng thơ – mà bằng chính đời sống của mình: một đời sống tỉnh thức, khiêm cung, hành trì không mỏi mệt để đem Phật pháp đi khắp thế gian, làm vơi bớt khổ đau nơi những mảnh đất còn chìm trong bóng tối.
“Tuỳ cơ ứng biến cõi trần,
Phân thân vô số độ dần chúng sinh”
Lời nguyện hóa thân vào mọi nẻo, vào những nơi khổ thú trầm luân, để hiện thân mà cứu khổ, để “chỉ cần thấy dạng nghe danh” cũng đủ làm vơi nhẹ oan khiên và khổ lụy. Người con Phật không tu cho riêng mình, mà nguyện dâng trọn phúc tuệ cho đời, cho cả những quyến thuộc, thân oan, cho cả những loài súc sinh trong mê tối.
“Thuốc thang cứu cấp cho đời,
Áo cơm cứu giúp cho người bần dân”
Thiền sư không xa rời cuộc đời, mà ôm lấy nó bằng đôi tay từ bi rộng mở, bằng ánh mắt thấy rõ khổ đau, và bằng lòng nguyện làm tất cả những gì có thể để xoa dịu. Đó chính là tinh thần Đại Thừa đích thực – không tìm sự giải thoát riêng rẽ, mà nguyện vào sinh tử, khổ đau mà hành đạo.
Và rồi, trong phần kết, lời nguyện vang lên với sức mạnh của một thệ ngôn vĩnh cửu:
“Hư không dù có chuyển di,
Nguyện con muôn kiếp không hề lung lay”
Một tâm nguyện lớn lao và bền vững như hư không, như ánh trăng lặng lẽ soi khắp mà không đắm nhiễm, như làn nước cam lồ chan hòa, làm dịu mát mọi nơi.
“Sám quy mạng” không chỉ là một bài văn sám – mà là một tấm bản đồ tâm linh, là con đường Bồ Tát giữa đời sống này. Ở đó, người con Phật học cách quỳ xuống không phải để yếu đuối, mà để tiếp xúc với đất tâm, với hạt giống giác ngộ đã có sẵn nơi chính mình. Càng sám hối sâu, lòng từ càng nở rộ. Càng nguyện rộng lớn, ánh sáng chân tâm càng soi khắp.
Và từ đó, mỗi chúng ta đều có thể bắt đầu lại – bằng một hơi thở chánh niệm, bằng một bước chân thảnh thơi, bằng một lời nguyện hồi tâm giữa cõi trần mê muội.
*
Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.
Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.
Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.
Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.
Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100m2 được đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.
Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.
Viên Ngọc Quý