Cảm nhận bài thơ: Ảnh cụ Hồ – Xuân Diệu

Ảnh cụ Hồ

 

Cụ Hồ, ấy là Việt Nam sinh đẻ,
Nên nghìn xưa còn lại vẻ nhà nho,
Trải thế gian qua biết mấy địa đồ,
Môi bất hủ vẫn nụ cười nước Việt;
Vẫn cái trán non cao, vẫn mắt ngời nước biếc,
Vẫn chòm râu hoà nhã của phương Đông.
Dân sinh ra, nên nói tựa dân đồng,
Lời chuyện vẫn lại nôm na tục ngữ.
Áo màu xám vẫn giữ tro vạn thuở
Của nương dâu, bãi đậu hoặc vườn ngô.
Sống rau dưa, giày mũ vải thô sơ,
Đời giản dị cũng đượm màu hiền triết.

Cụ Hồ đã hoá làm sông núi,
Mỗi nét lông mày mỗi nét non.
Dân chúng tưởng mong Hồ Chủ Tịch
Nghe êm trong dạ, ấm trong hồn.

Cụ Hồ quen thuộc thân yêu quá.
Dân chúng thiêng liêng vẽ tự lòng,
Vẽ ảnh cụ Hồ không giống Cụ,
Vì xem Chủ Tịch tựa non sông.

Tha hồ thêm thắt theo yêu mến,
Miễn được dung nhan để ngắm gần,
Lòng tựa Nguyệt Nga trong chuyện cũ,
Lấy trong bức ảnh gửi niềm thân.

Trẻ con sớm giậy thoảng tơ vương,
Bác ở trong lòng, biết mấy thương!
Bô lão đêm nằm mơ lứa tuổi,
Thấy vui như nhớ một vừng dương.

Gánh rau, gánh củi, gánh hoa hương
Vắt giọt mồ hôi, đặt xuống đường,
Phe phẩy nón cời, ngồi nhớ Cụ:
– Nghĩ nhiều, tóc có ngả màu sương?

Cái cưa, cái đục, cài cày sâu
Nhớ mắt tinh anh, nhẹ bớt sầu.
Chiếc bút, chiếc gươm như chiếc súng
Nghe câu khuyên bảo tựa vào nhau.

Mai mai hoà điệu những đêm đêm,
Như tiếng sông tuôn, tiếng gió thầm,
Lòng của dân gian yêu Chủ Tịch
Hoá thành khúc nhạc toả muôn năm.


1945-1948

*

Ảnh Cụ Hồ – Khi Hình Ảnh Trở Thành Biểu Tượng

Hình ảnh Bác Hồ trong thơ Xuân Diệu không chỉ là một bức chân dung, mà là một biểu tượng thiêng liêng, một phần máu thịt của non sông. Bài thơ Ảnh Cụ Hồ không miêu tả Bác bằng những nét bút thông thường, mà khắc họa Người qua chính tâm hồn, tình yêu và sự kính trọng của nhân dân.

Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu đã đặt Cụ Hồ vào dòng chảy của lịch sử dân tộc:
“Cụ Hồ, ấy là Việt Nam sinh đẻ,
Nên nghìn xưa còn lại vẻ nhà nho.”

Bác là hiện thân của Việt Nam, là kết tinh của truyền thống và hiện đại. Dẫu đã đi qua biết bao vùng đất, Bác vẫn giữ trọn vẹn phong thái của một người con nước Việt: từ ánh mắt ngời sáng, nụ cười đôn hậu, đến dáng vẻ bình dị với áo xám, rau dưa, mũ vải thô sơ. Đó không chỉ là sự giản dị của một con người, mà là sự khiêm nhường của một lãnh tụ, người dành cả cuộc đời mình cho đất nước, cho nhân dân.

Nhưng điều đặc biệt trong bài thơ không nằm ở sự miêu tả ngoại hình, mà ở cách hình ảnh Bác thấm vào lòng dân, trở thành một phần của cuộc sống thường ngày. Bác Hồ không chỉ tồn tại trên những tấm ảnh, mà hiện diện trong từng suy nghĩ, từng hành động của nhân dân:

“Cụ Hồ đã hoá làm sông núi,
Mỗi nét lông mày mỗi nét non.”

Dân gian không vẽ Bác bằng bút mực, mà vẽ bằng trái tim. Ảnh Cụ Hồ trong tâm trí mỗi người có thể không giống hệt thực tế, nhưng đó là một bức chân dung được khắc bằng lòng yêu kính, như một hình tượng bất diệt của đất nước.

Nỗi nhớ Bác không chỉ là sự ngưỡng vọng từ xa, mà còn là tình cảm gần gũi, thân thương: trẻ nhỏ nhớ Bác khi vừa thức dậy, người già nhớ Bác như nhớ ánh mặt trời. Những người lao động – từ người gánh rau, người cầm cưa, cầm bút, cầm súng – đều thấy trong hình ảnh Bác một nguồn động viên, một ánh mắt tinh anh tiếp thêm sức mạnh cho họ trong cuộc sống và chiến đấu.

Kết thúc bài thơ, Xuân Diệu khẳng định rằng tình yêu dành cho Bác đã hòa vào nhịp sống của nhân dân, như một khúc nhạc vang mãi không ngừng:

“Lòng của dân gian yêu Chủ Tịch
Hoá thành khúc nhạc toả muôn năm.”

Hình ảnh Bác Hồ trong thơ Xuân Diệu không chỉ là một chân dung, mà là linh hồn của dân tộc, là niềm tin và hy vọng, là ánh sáng dẫn đường cho bao thế hệ. Và dù thời gian có trôi qua, bài thơ vẫn vang vọng mãi, như một bản hùng ca về một con người đã hóa thân vào non sông, vào trái tim của hàng triệu con người Việt Nam.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *