Aragông và Enxa
I
Aragông và Enxa
Tình sử đẹp, tình ca.
Trong vườn tình muôn thuở
Nở vút một đôi hoa.
Chuyện riêng của hai người
Thành thơ chung nhân loại.
Aragông, Enxa
Tình mỗi ngày mới mãi.
Aragông thi sĩ
Người yêu kính nhân dân,
Người kiên cường chiến sĩ
Là tuyệt diệu tình nhân.
II
Tóc anh dù đã hoa râm,
Cho dù tóc cả trăm phần bạc đi;
Máu tươi từ lúc xuân thì,
Cho dù hạt máu có khi hết đào
Tuổi dù đập cửa xôn xao,
Lòng anh vĩnh viễn dạt dào vì em.
Anh còn ghen với bóng đêm
Ngày thơm hương, gió – anh ghen với ngày;
Ghen hoa, ghen tiếng đàn hay;
Ghen cùng giấy trắng trong tay em cầm;
Bốn mùa, ghen tựa kim đâm;
Tình yêu có thể yên nằm được a?
Hỡi em trường cửu Enxa
Ngày kia anh tưởng đã là mất em.
Trán xanh em ốm tay mềm,
Canh trường bên gối thâu đêm anh ngồi
Lo âu, nghe những giờ dài,
Tưởng hồn anh chết – nhưng trời sáng ra.
Chốc đà ba chục năm ta,
Hồn anh có đáng chi mà em thương?
Như anh, hàng xúc trên đường;
Em yêu, em tạc thành gương làu làu;
Hết thời khóc giả, cười đau,
Anh như ánh sáng trong thâu, thật mình.
Mở ra quyển sách hồn anh,
Vò đi hay xé tan tành các trang,
Tay thanh hay ngón phũ phàng,
Lật tờ đâu cũng thấy hàng tên em;
Một rì rào, một ấm êm,
Một ca xoang, một nỗi niềm: Enxa!
Tiếc cho ngày tháng năm qua
Anh đây chỉ tiếc bài ca chưa đầy,
Vườn tình chưa đủ tượng xây,
Chưa kêu thoả trái tim nầy: Enxa!
Enxa! Enxa! Enxa!
Vang vang vũ trụ, sáng loà thời gian!
III
Enxa! Enxa! người tự bao giờ sinh trưởng?
Người trong tay mang những diệu huyền chi?
Mắt người xanh hay mắt biếc mê li?
Người mái tóc vàng gieo hay sắc mật?
Tôi chưa thấy bao giờ trên Trái đất
Và dường như khó gặp giữa ngàn xưa
Một người nào diễm phúc tựa Enxa
Được tình ái dựng rào hoa vây bủa,
Ôm thắt mãi giữa vô cùng rộng mở,
Được tình yêu nhắc nhở mãi lời ca;
Ca khúc Enxa, Đôi mắt Enxa,
Và đây nữa Enxa: thơ bất tuyệt…
Tôi chưa thấy – hoặc bởi vì chưa biết –
Một suối nào tuôn mãi nước mùa xuân
Như người chồng vĩnh viễn vẫn tình nhân
Của Enxa, – trên đời đâu có thế!
Sáu mươi tuổi, vẫn một ngày tuổi trẻ,
Vẫn Enxa hoa mộng của tinh thần…
Enxa! Enxa! đẹp đẽ vô ngần!
Giữa xã hội của đồng tiền lụ khụ
Đến nỗi thanh niên cũng thành ra cũ,
Người ta thay tình ái tựa sơ mi,
Như sạch trong không còn giá trị gì,
Chỉ có chán chường, phù du, buôn bán;
Bỗng có tình yêu của một người cộng sản,
Một người ôm cờ đỏ – có lòng son
Lại tung cao sắc đẹp của tâm hồn,
Lại nói nước non, hẹn thề, say đắm,
Đến tuổi già vẫn cứ còn xanh thắm,
Qua tình yêu yêu mãi chuộc lại triệu trái tim
Và vạn nghìn đôi lứa hiểu tình thêm,
Hiểu thu sang lại nở vàng trăm cánh,
Hiểu mòn mỏi không phải là định mệnh,
Còn có lòng ta! còn có lòng ta!
Như con tàu vũ trụ mở bao la…
IV
Gửi lời tha thiết chào thăm
Trời Aragông với trăng rằm Enxa;
Trời tình thơm mãi bao la
Đoá trăng rằm: vĩnh viễn hoa ái tình.
Dưới lầu đôi lứa trong xanh
Tôi ôm đàn, gảy ân tình, lạ chưa!
Nhà thơ đâu có thiếu thơ,
Cần chi tôi hát giấc mơ hộ người?
Bởi tôi hát tựa hoa cười,
Bởi tình nhân loại của tôi đó mà.
Bởi tình là của chúng ta,
Hát anh, hát chị cùng là hát tôi!
Hỡi người yêu dấu em ơi!
Ca luôn vẫn chửa hết lời tình duyên,
Biết đâu không phải vì Em
Mà anh say đắm làm nên khúc này?
16-2-1962
Louis Aragon là nhà thơ lớn nhất nước Pháp hiện nay, Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, năm nay 65 tuổi, vẫn giữ một tình yêu mãi mãi thắm thiết với vợ là Elsa Triolet, vốn người Liên Xô (Nga), và là một nhà văn nổi tiếng của nước Pháp. Aragon đã viết tặng Elsa mấy tập thơ: Ca khúc Enxa, Đôi mắt Enxa, và Enxa. (Chú thích của tác giả)
*
Aragông và Enxa – Khúc tình ca vĩnh cửu của tình yêu và lý tưởng
Tình yêu – thứ ánh sáng kỳ diệu soi rọi tâm hồn con người, là cảm hứng bất tận của thi ca. Trong bài thơ “Aragông và Enxa”, Xuân Diệu đã ngợi ca tình yêu thiêng liêng giữa nhà thơ cộng sản Louis Aragon và người vợ Elsa Triolet. Đây không chỉ là câu chuyện tình riêng của hai con người, mà còn là biểu tượng cho một tình yêu lớn lao, gắn liền với nhân loại, với cách mạng, với những giá trị bất diệt của trái tim.
Tình yêu hóa thành thi ca, thi ca hóa thành nhân loại
Từ những vần thơ đầu tiên, Xuân Diệu đã khẳng định rằng tình yêu của Aragông và Enxa không chỉ là chuyện riêng của hai người, mà đã trở thành một “tình sử đẹp, tình ca”, là “thơ chung nhân loại”.
“Chuyện riêng của hai người
Thành thơ chung nhân loại.
Aragông, Enxa
Tình mỗi ngày mới mãi.”
Tình yêu của họ không chỉ là sự gắn bó giữa hai tâm hồn mà còn là ngọn lửa nuôi dưỡng lý tưởng cách mạng, là động lực để sống và sáng tạo. Aragông không chỉ là một thi sĩ, mà còn là một chiến sĩ, một người yêu nước vĩ đại. Chính vì vậy, tình yêu của ông không lụi tàn theo thời gian, mà ngày càng sâu đậm, ngày càng trở thành biểu tượng của sự thủy chung và kiên định.
Tình yêu trường tồn qua năm tháng
Aragông yêu Enxa với một tình cảm mãnh liệt, say đắm, vượt qua mọi rào cản của tuổi tác và thời gian. Xuân Diệu đã diễn tả điều đó bằng những vần thơ đầy xúc động:
“Tóc anh dù đã hoa râm,
Cho dù tóc cả trăm phần bạc đi;
Máu tươi từ lúc xuân thì,
Cho dù hạt máu có khi hết đào…”
Dẫu thời gian có trôi qua, dẫu tóc có bạc trắng, tình yêu của Aragông vẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu. Không chỉ yêu thương, ông còn ghen với bóng đêm, với ngày thơm hương, với tiếng đàn hay, bởi tình yêu ấy đã trở thành lẽ sống, là nhịp đập không thể thiếu trong cuộc đời.
Không chỉ có niềm vui, tình yêu ấy còn đi qua những thử thách, những giờ phút lo âu khi Enxa lâm bệnh. Xuân Diệu khắc họa sự đau đớn và sợ hãi của Aragông khi đối diện với nguy cơ mất đi người mình yêu, để rồi vỡ òa trong hạnh phúc khi “trời sáng ra”. Đó là sự mong manh nhưng cũng là vẻ đẹp thiêng liêng của tình yêu đích thực.
Enxa – Người phụ nữ được tình yêu tạc thành bất tử
Hình ảnh Enxa trong thơ Xuân Diệu không chỉ là người phụ nữ được yêu thương, mà còn là biểu tượng của cái đẹp, của sự vĩnh hằng trong tình yêu.
“Mở ra quyển sách hồn anh,
Vò đi hay xé tan tành các trang,
Tay thanh hay ngón phũ phàng,
Lật tờ đâu cũng thấy hàng tên em.”
Tình yêu của Aragông dành cho Enxa không chỉ là sự ngưỡng mộ, mà còn là sự tôn thờ, là sự hiện diện trong từng trang thơ, trong từng suy nghĩ, trong từng nhịp thở của cuộc đời. Đó là một tình yêu hiếm có, bền bỉ qua năm tháng, không phai nhạt dù cho thời gian có đổi thay.
Tình yêu không chỉ là của riêng hai người, mà là của cả nhân loại
Không chỉ ngợi ca tình yêu giữa Aragông và Enxa, Xuân Diệu còn nhìn thấy ở đó một biểu tượng lớn hơn: tình yêu không chỉ dành riêng cho hai con người, mà còn là tình yêu dành cho nhân loại, cho lý tưởng, cho cuộc đời.
“Bởi tôi hát tựa hoa cười,
Bởi tình nhân loại của tôi đó mà.”
Tình yêu ấy không bị vây hãm trong những cảm xúc riêng tư mà lan tỏa, truyền cảm hứng cho bao thế hệ. Giữa một thế giới đầy toan tính, nơi mà “người ta thay tình ái tựa sơ mi”, thì tình yêu của Aragông chính là ánh sáng rực rỡ, là minh chứng cho sự trường tồn của tình yêu chân chính.
Lời kết
Bài thơ “Aragông và Enxa” không chỉ là khúc ca ngợi tình yêu của hai con người cụ thể, mà còn là một tuyên ngôn về giá trị vĩnh cửu của tình yêu chân thành. Đó là một tình yêu không bị bào mòn bởi thời gian, không lung lay trước thử thách, mà ngày càng bền chặt và thăng hoa.
Xuân Diệu đã khắc họa một Aragông yêu say đắm, một Enxa đẹp đẽ và vĩnh cửu, một tình yêu vượt qua mọi giới hạn để trở thành huyền thoại. Và trên hết, bài thơ gửi gắm niềm tin rằng tình yêu chân chính không bao giờ là lỗi thời, rằng giữa dòng đời vội vã, vẫn luôn có những trái tim chung thủy, biết sống và yêu hết mình.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý