Cảm nhận bài thơ: Bà cụ mù loà  – Xuân DiệuBà cụ mù loà

Nhà tranh, bà cụ mù loà
Chiều chiều cõng cháu trông nhà một thân.
Con trai hăng hái tòng quân,
Dâu hiền tất tả lo chăm việc đồng.
Một đời cấy rẽ làm công,
Làm bao nhiêu, chỉ đau lòng, thiếu ăn!
Nghèo không sắm nổi cái khăn,
Khổ như trái bưởi chìm lăn, dập vùi.
Goá chồng từ lúc bốn mươi,
Chết con ba đứa, sẩy thai một lần.
Mắt đau lông cặm mờ dần,
Người chăm, thuốc chữa một phần cũng không
Tuổi già nay sáu mươi đông,
Mười lăm năm chẳng được trông mặt trời.
Thương dâu chạy bữa lần hồi,
Sào khoai, con lợn, mù rồi vẫn chăm.
Lần mò nhúm lửa, nấu cơm,
Tối tăm sờ soạng đêm hôm ngợ ngàng.
Mẹ ơi! con đến trong làng,
Con nhìn mắt mẹ lòng càng xót sa!
Một trăm năm mất nước nhà,
Nghìn năm địa chủ làm ta đói nghèo.
Mẹ mù vì thuế phải đeo,
Vì tô phải trả, lại đèo nợ non.
Một đời của mẹ héo hon,
Có hai con mắt chết mòn cả hai.
Quanh năm chỉ một đêm dài,
Sáng trời không thấy mặt người thân yêu.
Lòng bà thương cháu nâng niu,
Chỉ nghe thấy tiếng sớm chiều mà thôi!
Sáu mươi tuổi, khổ chưa rồi,
Đó là tội ác của loài dã man:
Quân địa chủ! lũ thực dân!
Chúng bay cướp cả mọi phần sướng vui!
Cướp trâu, cướp ruộng, cướp đồi,
Bay còn cướp giật cả đôi mắt người.
Trả đây nước mắt, mồ hôi,
Ruộng nương, nhà cửa, cuộc đời chúng tao
Trước kia bay ở trên cao,
Bây giờ sẽ quật bay vào đất đen!
Dân cày ta đã đứng lên,
Nụ cười đem lại ở trên môi già.
Mẹ dù đau đớn mù loà,
Ánh xuân sẽ dọi chan hoà tâm can.


9-1953

*

Ánh Sáng Trong Đôi Mắt Mù Lòa

Có những bài thơ không chỉ là tiếng lòng của một nhà thơ, mà còn là tiếng khóc của cả một kiếp người. Bà cụ mù lòa của Xuân Diệu là một bài thơ như thế. Không phải là những vần thơ lãng mạn, cũng chẳng phải những dòng chữ hoa mỹ, bài thơ khắc họa chân thực số phận bi thương của một con người – một bà cụ già mù lòa, cả đời chìm trong đói khổ, cơ cực. Nhưng giữa bóng tối ấy, vẫn le lói một tia sáng – ánh sáng của niềm tin, của hy vọng vào một ngày mai đổi thay.

Bà cụ ấy là ai? Là một người mẹ cả đời tảo tần, goá bụa từ khi còn trẻ, mất con, chịu đựng sự vùi dập của đói nghèo:

“Goá chồng từ lúc bốn mươi,
Chết con ba đứa, sẩy thai một lần.”

Bà không chỉ mất người thân, mà còn mất cả đôi mắt – đôi mắt lẽ ra phải được nhìn thấy ánh sáng, được ngắm nhìn con cháu lớn lên, được trông thấy cánh đồng, dòng sông, mái nhà thân thuộc. Nhưng tất cả chỉ còn là bóng tối mịt mùng, nơi mà bà chỉ có thể lần mò, sờ soạng trong cảnh mù lòa.

Không phải vì tuổi già mà bà mất đi ánh sáng. Chính những áp bức, bóc lột, sưu cao thuế nặng, kiếp sống đói nghèo triền miên đã cướp đi đôi mắt của bà:

“Mẹ mù vì thuế phải đeo,
Vì tô phải trả, lại đèo nợ non.”

Lời thơ xót xa như một bản cáo trạng. Không chỉ có bà cụ, mà biết bao người nông dân khác cũng phải sống trong cảnh lầm than ấy. Không một chút màu mè, Xuân Diệu đã phơi bày hiện thực đau đớn của xã hội cũ – một xã hội mà những con người nghèo khổ bị vắt kiệt sức lao động, bị tước đoạt cả quyền được sống một cách đúng nghĩa.

Nhưng bà cụ ấy không than vãn, không khuất phục. Dù mù lòa, dù tuổi già sức yếu, bà vẫn tiếp tục chăm sóc cháu, vẫn cố gắng làm việc để đỡ đần con dâu. Đó không chỉ là nghị lực của một con người, mà còn là biểu tượng của sức sống bền bỉ của người nông dân Việt Nam.

Và rồi, trong tận cùng của bóng tối, một ánh sáng mới bừng lên:

“Dân cày ta đã đứng lên,
Nụ cười đem lại ở trên môi già.
Mẹ dù đau đớn mù lòa,
Ánh xuân sẽ dọi chan hoà tâm can.”

Đó là ánh sáng của cách mạng, của niềm tin vào tương lai. Những kẻ từng chà đạp lên số phận của người nghèo sẽ không thể mãi đứng trên đầu họ. Người nông dân đã đứng lên, đã giành lại quyền sống, giành lại ruộng đất, giành lại nụ cười trên môi.

Bà cụ không thể nhìn thấy ánh sáng, nhưng trái tim bà vẫn cảm nhận được mùa xuân đang đến – một mùa xuân của công bằng, của những đổi thay lớn lao. Và có lẽ, đó mới chính là ánh sáng rực rỡ nhất trong cuộc đời bà.

Bài thơ Bà cụ mù lòa không chỉ là lời tố cáo mạnh mẽ tội ác của chế độ phong kiến và thực dân, mà còn là khúc ca về lòng kiên cường, về niềm tin vào ngày mai tươi sáng. Trong bóng tối cùng cực, vẫn có những con người không ngừng hy vọng. Và ánh sáng thật sự không chỉ đến từ đôi mắt, mà còn đến từ trái tim – từ một niềm tin không bao giờ lụi tắt.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *