Cảm nhận bài thơ: Bà hoả viếng Bộ Văn hoá Giáo dục – Nguyễn Vỹ

Bà hoả viếng Bộ Văn hoá Giáo dục

 

3 giờ chiều ngày 29-9, thình lình có lửa phát cháy dữ dội tại từng lầu 4 của Bộ Văn hoá Giáo dục ở số 7, đường Thống Nhất. Một lúc sau, đội Cứu hoả đến đàn áp được ngọn lửa…”
Nghe tin trên đây đăng trong các nhật báo Sài Gòn Diệu Huyền tức giận mắng bà Hoả:


Bá ngọ bà thần Hoả
Dám đốt Bộ Văn hoá,
Hả?
Để ông Tổng Uỷ viên
Hết hồn… sợ tá hoả!
Hả?
Đốt đâu không giỏi đốt
Lại đốt Bộ Văn hoá,
Hả?
Nơi óc não tài hoa,
Toàn Thi hào, Thi bá,
Hả?
Nơi tụ họp tao nhã
Của các đại ký giả
Của các đại văn nhân
Và các đại học giả,
Sao dám đốt ra tro,
Láo thế, bà thần Hoả,
Hả?
Bốn ngàn năm văn hoá
Lừng lẫy Đông Nam Á
Có người Tổng Uỷ viên
Tài cao như Hy Mã,
Trí rộng như biển cả,
Hả?
Đại diện nước Việt Nam,
Thật là đại danh giá,
Hả?
Vậy mà dám đốt càn,
Xạc-cờ-rê-cu-son cái bà Hoả!
Hả?


Đăng trên Tạp chí Phổ thông số 201, ngày 15-10-1967.

*

Sự Mỉa Mai Cay Đắng Trong “Bà Hoả Viếng Bộ Văn Hoá Giáo Dục”

Ngọn Lửa – Tai Hoạ Hay Sự Phơi Bày?

Nguyễn Vỹ – nhà thơ luôn mang trong mình một nỗi đau thời cuộc, một sự bức xúc trước thực trạng xã hội – đã không ngần ngại dùng ngòi bút sắc bén để lên tiếng. Trong bài thơ “Bà Hoả Viếng Bộ Văn Hoá Giáo Dục”, ông không chỉ tường thuật một vụ hỏa hoạn đơn thuần mà còn mượn nó để lột tả sự mục ruỗng của bộ máy văn hoá – giáo dục đương thời.

Nhịp Điệu Châm Biếm Đầy Chua Chát

Bài thơ được viết bằng giọng điệu mỉa mai, hài hước nhưng không kém phần cay đắng. Việc lặp đi lặp lại chữ “Hả?” trong từng câu thơ tạo nên một nhịp điệu dồn dập, mạnh mẽ, giống như một loạt câu hỏi xoáy sâu vào bản chất của vấn đề. Tác giả không đơn thuần trách móc bà Hoả, mà thực chất đang chất vấn chính những con người làm nên nền văn hóa và giáo dục của đất nước.

Một Nền Văn Hoá Trống Rỗng Đằng Sau Những Danh Xưng

Nguyễn Vỹ không ngần ngại mỉa mai những kẻ được gọi là “tài hoa”, “thi bá”, “học giả”, những người lẽ ra phải cống hiến cho nền giáo dục và văn hóa nước nhà, nhưng thực chất chỉ là những cái danh rỗng. Đặc biệt, hình ảnh “Tổng Uỷ viên” được ca ngợi là “tài cao như Hy Mã”, “trí rộng như biển cả”, nhưng ẩn sau đó là sự khoa trương lố bịch, càng làm nổi bật sự đối lập giữa lời lẽ tô vẽ và thực tế đáng thất vọng.

Lời Kết Đầy Chua Xót

Câu thơ cuối “Xạc-cờ-rê-cu-son cái bà Hoả! Hả?” như một cú đấm chốt hạ, vừa hài hước, vừa châm biếm sâu cay. Ngọn lửa của bà Hoả – tưởng là tai họa – nhưng thực ra chỉ là sự phơi bày những điều vốn đã mục nát. Nguyễn Vỹ, bằng phong cách trào phúng sắc bén, đã không chỉ viết một bài thơ giễu cợt một vụ cháy mà cònphơi bày sự suy tàn của nền văn hóa và giáo dục lúc bấy giờ.

“Bà Hoả Viếng Bộ Văn Hoá Giáo Dục” không chỉ là một bài thơ trào phúng, mà còn làmột tiếng thở dài ngao ngán của một người trí thức chân chính trước sự sa sút của văn hóa nước nhà. Đây không chỉ là tiếng cười giễu cợt, mà còn lànỗi xót xa, nỗi đau đáu của một kẻ sĩ trước thời cuộc đầy bi kịch.

*

Nguyễn Vỹ – Nhà thơ, nhà báo kiên định với lý tưởng

Nguyễn Vỹ (1912 – 1971) là một nhà thơ, nhà báo nổi bật trong nền văn học Việt Nam thời tiền chiến. Ông không chỉ được biết đến qua hai bài thơ gây tiếng vang: Gởi Trương TửuSương rơi, mà còn ghi dấu ấn với nhiều tác phẩm đa dạng từ thơ ca, tiểu thuyết đến biên khảo.

Sinh tại Quảng Ngãi, Nguyễn Vỹ sớm bộc lộ tư tưởng yêu nước, từng nhiều lần bị bắt giam vì các hoạt động chống thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ông cũng là người sáng lập nhiều tờ báo như Việt – Pháp, Tổ quốc, Dân chủ, Dân ta, trong đó tạp chí Phổ Thông được đánh giá cao về văn học và nghệ thuật.

Thơ Nguyễn Vỹ mang phong cách riêng biệt, thể nghiệm nhiều lối viết mới. Dù từng bị phê phán, nhưng ông vẫn kiên trì theo đuổi con đường sáng tạo, để lại dấu ấn với những tác phẩm thể hiện nỗi trăn trở về xã hội và vận mệnh con người.

Ông qua đời năm 1971 do tai nạn giao thông, khép lại cuộc đời một người cầm bút nhiệt huyết, dấn thân không ngừng vì văn chương và tư tưởng.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *