Cảm nhận bài thơ: Bài ca quê hương – Nguyễn Bính

Bài ca quê hương

 

Trải nghìn dặm trời mây bạn tới.
Thăm quê tôi, tôi rất đỗi vui mừng!
Bạn nán lại cùng tôi thêm buổi nữa.
Để tôi xin kể nốt chuyện quê hương.

…Quê hương tôi có cây bầu cây nhị
Tiếng “đàn kêu tích tịch tình tang…”
Có cô Tấm náu mình trong quả thị,
Có người em may túi đúng ba gang.

Quê hương tôi có ca dao tục ngữ,
Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi.
Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ,
Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi.

Con chim nhỏ cũng đau hồn nước mất
“Cuốc cuốc” kêu rỏ máu những đêm vàng
Chân ngựa đá cũng dính bùn trận mạc.
Theo người đi cứu nước chống xâm lăng.

Quê hương tôi có bà Trưng, bà Triệu
Cưỡi đầu voi, dấy nghĩa, trả thù chung.
Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến,
Hưng Đạo vương đã mở hội Diên Hồng.

Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm,
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo.
Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”.
Có Nguyễn Du và có một “Truyện Kiều”.

Quê hương tôi có Trường Sơn một dải,
Có Hồng Hà lại có Cửu Long Giang
Có Hà Nội có hồ Tây, hồ Kiếm.
Chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng.

Quê hương tôi có sầu riêng, măng cụt
Lòng bưởi đào, lòng gấc đỏ như son.
Có gạo tám xoan thổi nồi đồng điếu,
Cam xã Đoài ai bóc cũng thơm ngon.

Cánh đồng nào cũng chôn vàng giấu bạc,
Bờ biển nào cũng chói ngọc ngời châu.
Có thanh quế ngửi qua là khỏi bệnh,
Có cây lim đóng cả một thân tầu.

Quê hương tôi có những người con gái
“Một ngày hai bữa cơm đèn…”
Cách sông cái cũng bắc cầu dải yếm,
Cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên.

Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát;
Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ.
Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng,
Sớm hay chiều, đều mượn cánh cò đưa.

Khi có giặc những tre làng khắp nước,
Đều xả thân làm ngọn mác, mũi chông,
Những trai gái thôn Đông, xóm Bắc
Thoắt vươn vai thành những anh hùng…

Quê tôi đó – bạn ơi! – là thế đó.
Mà nghìn năm rặt những tiếng kêu thương
Sung sướng làm sao! Bỗng một ngày: có Đảng
Có Bác Hồ, làm sống lại quê hương.

Đánh Nhật, đuổi Tây cứu dân, dựng nước
Hai mươi năm kể biết mấy công trình!
Và từ đây, núi sông và cuộc sống.
Và quê hương mới thực sự của minh.

Cuộc đời mới con người cũng mới,
Khắp bốn phương lộng lẫy ánh sao cờ,
“Đoàn quân Việt Nam đi… chung lòng cứu quốc…”
Đầu ngẩng cao từ cách mạng mùa thu.

Những xiềng xích nghìn năm đều bẻ gãy.
Những bài ca điệu múa lại vui tươi.
Những trận khóc đêm dài không có nữa.
Thành thị nông thôn rộn rã tiếng cười.

Trong luỹ tre xanh vui mùa hợp tác,
Mái ngói nhô lên như những nụ hoa hồng.
Chung ruộng, chung trâu, chung lòng, chung sức
Chung con đường gặt lấy ấm no chung.

Trong xưởng máy tưng bừng như đám hội.
Những chủ nhân là chính những công nhân.
Tiếng máy reo chen tiếng cười tiếng hát,
Chẳng còn đâu tiếng chủ thét, cai gầm!

Những nhà thơ được tự do ca ngợi,
Quê hương. Tổ quốc, con người…
Và đời sống khỏi túng, nghèo, đói, khổ.
Khỏi bị ai khinh rẻ, dập vùi!

Đời trước thường mơ chuyện tiên, chuyện Phật,
Truyện thiên đường trong những cõi hư vô…
Đời nay dựng thiên đường trên mặt đất,
Dựng mùa xuân trong tất cả bốn mùa.

Khi con người được tự do giải phóng.
Đất rộng hơn mà trời cũng xanh hơn.
Quả trên cành cũng thêm ngon, thêm ngọt,
Hoa trong vườn cũng thêm sắc, thêm hương.

Và ý nghĩa những ca dao, tục ngữ
Ngày càng thêm thắm thiết, ngọt ngào.
Và “Truyện Kiều” mới có chân giá trị,
Và Nguyễn Du mới thành đại thi hào.

Thửa ruộng cũ cấy thêm mùa lúa mới,
Khung trời quê mọc những nóc lò cao.
Dây “cao thế” đã chăng dài khắp nẻo,
(Xóm làng tôi điện sẽ át trăng sao).

Những gỗ tốt đã dựng câu lạc bộ,
Gạo tám xoan thơm bếp lửa nhân dân.
Những cô Tấm tự tay xây hạnh phúc
Chẳng phải gian nan hoá kiếp mấy lần.

Và lớp lớp những anh hùng xuất hiện.
Sức thanh niên: sức Phù Đổng là đây!
Đẩy biển lùi ra, ngăn sông đứng lại,
Khẩu súng trường cũng hạ nổi máy bay.

Hội Diên Hồng thôn xã nào cũng mở,
Chuyện “kháng chiến trường kỳ” ai cũng nhớ nhập tâm.
“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”
Câu ấy giờ đây đã đúng cả trăm phần.

Đảng cùng dân đã viết thêm lịch sử,
Lửa Điện Biên sáng dậy cả trăm năm.
Lửa Ấp Bắc, Chu Lai cũng bừng rực rỡ,
Lửa chiến công đang chói lọi miền Nam.

Khi có Đảng, có Bác Hồ lãnh đạo;
Có truyền thống cha ông để lại tự bao đời.
Thì đánh Mỹ nhất định là phải thắng
Chuyện ấy, quê tôi, thành chuyện dĩ nhiên rồi.

***

Câu chuyện quê tôi, sơ sài mấy nét.
Bạn trở về xin kể mọi người hay.
Riêng phần tôi có thơ này tặng bạn,
Tặng quê mình, nhân dịp tết năm nay.


(Tết Bính Ngọ, 1966)

*

“Bài ca quê hương” – Khúc tráng ca của một dân tộc hồi sinh

Có những bài thơ không chỉ là nghệ thuật, mà còn là lịch sử sống, là tiếng nói của một thời đại, là khúc tráng ca vút lên từ lòng đất, từ ngàn năm nước mắt, từ phút giây hồi sinh của một dân tộc. Bài ca quê hương của Nguyễn Bính chính là một bài thơ như thế.

Viết vào đầu xuân Bính Ngọ 1966, trong bối cảnh đất nước đang bừng bừng khí thế kháng chiến và kiến thiết, bài thơ là lời kể chân thành, tha thiết và tự hào của một người con nói với bạn về quê hương mình. Nhưng không chỉ là một câu chuyện địa phương, đó là hình ảnh đất nước – quê hương trong nghĩa rộng nhất, nghĩa sâu xa nhất – nơi mọi giá trị văn hóa, truyền thống, anh hùng và khát vọng đều quy tụ.

Từng khổ thơ như những thớ đất được lật lên để phơi bày vẻ đẹp bình dị và linh thiêng:
“Quê hương tôi có cây bầu cây nhị / Tiếng ‘đàn kêu tích tịch tình tang’…”
Đó là quê hương cổ tích, với cô Tấm bước ra từ quả thị, với câu ca dao ngọt ngào như mạch suối. Là nơi mà con chim nhỏ cũng mang hồn nước, tiếng “cuốc cuốc” thành máu đổ cho những giấc mộng non sông. Là nơi có bà Trưng, bà Triệu cưỡi voi, có Lê Lợi, Hưng Đạo dấy nghĩa. Là nơi con người biết yêu, biết thương, biết hát và biết chết cho điều mình tin tưởng.

Không dừng ở hoài niệm, bài thơ chuyển mình mạnh mẽ khi kể về bước ngoặt của lịch sử – “Bỗng một ngày: có Đảng / Có Bác Hồ, làm sống lại quê hương.”
Từ đây, đất nước không chỉ hồi sinh, mà còn thay da đổi thịt. Làng quê xưa với mái rạ lụp xụp, với đêm dài đói rét, nay đã ngập tràn tiếng máy reo, tiếng ca trong xưởng. Những cô Tấm nay “tự tay xây hạnh phúc”, không còn trông chờ phép mầu gian khổ. Những chàng trai, cô gái – như Phù Đổng tái sinh – biết đẩy biển, ngăn sông, bẻ gãy gông cùm, và viết tiếp bản anh hùng ca thời đại.

Nguyễn Bính không tô vẽ, không khoa trương, mà lời thơ ông như chính tấm lòng người nông dân sau mùa cày hái, chất phác mà sâu xa. Cái nhìn của ông về sự đổi thay không đơn thuần là vật chất, mà là sự thức tỉnh tinh thần – là sự thay người, thay ý nghĩa sống:
“Đời nay dựng thiên đường trên mặt đất, / Dựng mùa xuân trong tất cả bốn mùa.”
Câu thơ ấy như một lời tuyên ngôn cho một khát vọng lớn lao: mang lại hạnh phúc thực sự cho nhân dân bằng chính bàn tay, trí óc của mình, chứ không phải bằng mơ mộng về cõi Phật, cõi Tiên.

Qua Bài ca quê hương, Nguyễn Bính truyền đi một thông điệp rõ ràng và đầy cảm xúc:
Quê hương là cội nguồn linh thiêng, là điểm tựa truyền thống để mỗi con người vươn mình xây dựng một tương lai mới, và chính lòng yêu nước, yêu quê là sức mạnh lớn lao nhất để làm nên mọi kỳ tích.

Bài thơ không chỉ là khúc hát mùa xuân – nó là một bản tuyên ngôn yêu nước, là niềm tin bất diệt vào lý tưởng cộng đồng, và là hình ảnh quê hương trong một giấc mơ đã hóa thực: từ cổ tích đến cách mạng, từ gian truân đến hồi sinh, từ tiếng “cuốc cuốc” rỏ máu đến tiếng hát xây đời mới. Một bài ca – như chính cái tên – để ngợi ca, để ghi nhớ, và để tin tưởng.

*

Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *