Cảm nhận bài thơ: Bài ca về Phật và tâm – Tuệ Trung Thượng Sĩ

Bài ca về Phật và tâm

 

Phật! Phật! Phật! Không thể thấy
Tâm! Tâm! Tâm! Không thể nói.
Nếu khi tâm sanh là Phật sanh
Nếu khi Phật diệt là tâm diệt.
Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu
Diệt Phật còn tâm khi nào hết?
Muốn biết Phật tâm, sanh diệt tâm
Đợi đến sau này Di-lặc quyết.

Xưa không tâm, nay không Phật
Phàm, Thánh, người, trời như điện chớp.
Tâm thể không thị cũng không phi
Phật tánh chẳng hư cũng chẳng thật.
Bỗng dưng dấy, bỗng dưng dừng
Xưa qua nay lại luống nghĩ bàn.
Đâu chỉ chôn vùi thừa Tổ tông
Lại khiến yêu ma nhà mình lộng.

Muốn tìm tâm, đừng tìm ngoài
Bản thể như nhiên tự rỗng lặng.
Niết-bàn sanh tử buộc ràng suông
Phiền não Bồ-đề đối địch rỗng.
Tâm tức Phật, Phật tức tâm
Diệu chỉ sáng ngời suốt cổ kim.
Xuân đến, tự nhiên hoa xuân nở
Thu về, hiện rõ nước thu sâu.

Bỏ vọng tâm, giữ Chân tánh
Như người tìm bóng mà quên kính.
Đâu biết bóng có từ nơi gương
Chẳng rõ vọng từ trong chân hiện.
Vọng đến không thật cũng không hư
Gương nhận không cong cũng không thẳng.

Cũng không tội, cũng không phước
Lầm sánh ma-ni cùng bạch ngọc.
Ngọc có vết chừ châu có tỳ
Tánh vốn không hồng cũng không lục.
Cũng không được, cũng không mất,
Bảy lần bảy là bốn mươi chín.
Tam độc cửu tình nhật trong không
Lục độ vạn hạnh sóng trên biển.

Lặng, lặng, lặng, chìm, chìm, chìm
Cái tâm muôn pháp là tâm Phật.
Tâm Phật lại cùng tâm ta hợp
Lẽ ấy như nhiên suốt cổ kim.
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền
Trong lò lửa rực, một hoa sen.
Ý khí mất thì thêm ý khí
Được nơi an tiện hãy an tiện.

Chao! Chao! Chao! Ối! Ối! Ối!
Bọt trong biển cả nổi chìm rỗng.
Các hạnh vô thường tất cả không
Linh cốt Tiên sư chỗ nào thấy?
Tỉnh tỉnh thức, thức tỉnh tỉnh
Bốn góc đạp đất chớ chinh nghiêng.
Người nào nơi đây tin được đến
Trên đảnh Tỳ-lô cất bước đi
Hét!

(Bản dịch của Thiền sư Thích Thanh Từ)

*

Phật Và Tâm – Một Tiếng Gầm Giữa Cõi Mộng

Tuệ Trung Thượng Sĩ không phải một thi nhân thông thường. Ông cũng không chỉ là một thiền sư giảng đạo qua những lời kinh điển. Thơ của ông là tiếng gầm của con sư tử giữa chốn hồng trần, là lời phá vỡ mọi chấp trước, khiến người đọc như sét đánh ngang tai, bừng tỉnh giữa giấc mộng luân hồi.

Bài thơ “Bài ca về Phật và tâm” không phải là một bản tán tụng, cũng không phải một lời khuyến giáo. Đó là một nhát kiếm bén ngót, chém đứt mọi vọng tưởng về Phật, về tâm, về những gì con người cứ bám chấp vào để rồi tự trói buộc chính mình.

Phật Ở Đâu? Tâm Là Gì?

“Phật! Phật! Phật! Không thể thấy
Tâm! Tâm! Tâm! Không thể nói.”

Người đời vẫn mãi kiếm tìm Phật, vái lạy Phật, cầu xin Phật, nhưng có ai từng thấy Phật chưa? Phật không nằm trong pho tượng, không ở nơi xa vời, cũng chẳng thuộc về quá khứ hay tương lai. Phật, nếu có, chính là ngay trong tâm mình. Nhưng nếu hỏi “tâm là gì?” – thì cũng chẳng thể nói được. Tâm không có hình tướng, không thể chỉ ra, không thể nắm bắt.

“Nếu khi tâm sanh là Phật sanh
Nếu khi Phật diệt là tâm diệt.”

Phật không phải một thực thể độc lập. Khi tâm sinh thì Phật có, khi tâm diệt thì Phật cũng không còn. Phật và tâm không hai, không tách biệt. Vậy thì tại sao cứ mãi đi tìm một Đức Phật bên ngoài, trong khi chính mình đã có sẵn Phật trong lòng?

“Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu
Diệt Phật còn tâm khi nào hết?”

Nếu diệt tâm thì Phật cũng không còn. Nếu diệt Phật thì tâm có mất đi không? Đây là một câu hỏi sắc bén như lưỡi dao, đẩy người nghe vào tình thế không thể né tránh. Nếu ta cố gắng tìm Phật bằng vọng tâm, đó là sai. Nếu ta cố gắng diệt trừ vọng tâm để giữ Phật, cũng sai nốt.

“Muốn biết Phật tâm, sanh diệt tâm
Đợi đến sau này Di-lặc quyết.”

Tuệ Trung Thượng Sĩ đang mỉm cười đầy ẩn ý. Nếu ai còn chấp vào Phật hay tâm, còn cố tìm cái “sinh diệt”, thì hãy cứ đợi – đợi đến khi Di-lặc xuất thế mà hỏi! Nhưng điều ấy có khác nào bảo rằng cứ đợi mãi, đợi mà chẳng bao giờ thấy?

Phàm Và Thánh – Một Chớp Mắt Huyễn Hóa

“Xưa không tâm, nay không Phật
Phàm, Thánh, người, trời như điện chớp.”

Trước khi có Phật, vốn chẳng có tâm. Khi chưa sinh ra khái niệm Phật, con người cũng chẳng tự gọi mình là phàm hay thánh. Nhưng rồi, vì vọng tưởng, chúng ta mới chia ra kẻ phàm – bậc thánh, người – trời, để rồi chìm sâu vào những khái niệm ấy mà không bao giờ thoát ra được. Nhưng tất cả chỉ là tia chớp trên bầu trời đêm, loé lên rồi vụt tắt, không có gì là thực.

“Tâm tức Phật, Phật tức tâm
Diệu chỉ sáng ngời suốt cổ kim.”

Phật chính là tâm, tâm chính là Phật. Không có Phật nào bên ngoài tâm, cũng không có tâm nào nằm ngoài Phật. Đây là chân lý rực rỡ tự ngàn xưa, chiếu sáng từ cổ chí kim, nhưng có mấy ai chịu dừng lại để nhìn thấy?

Bọt Sóng Giữa Biển Cả – Huyễn Mộng Giữa Đời

“Chao! Chao! Chao! Ối! Ối! Ối!
Bọt trong biển cả nổi chìm rỗng.
Các hạnh vô thường tất cả không
Linh cốt Tiên sư chỗ nào thấy?”

Tiếng kêu của Thượng Sĩ không phải tiếng ai oán, mà là một tiếng hét xé toang mọi vọng tưởng. Đời người chẳng khác gì bọt sóng giữa đại dương, khi nổi khi chìm, khi hợp khi tan. Cũng như thế, mọi hạnh, mọi công đức, mọi danh lợi, tất cả đều là vô thường, đến rồi đi.

Người đời cứ mãi thương tiếc, hoài niệm về quá khứ, nhưng thử hỏi linh cốt của những bậc thánh nhân ngày xưa bây giờ ở đâu? Có ai tìm được không? Nếu ngay cả sự vĩnh hằng của những bậc vĩ nhân cũng chỉ là một cơn gió thoảng, thì huống chi những lo toan tầm thường của con người?

“Tỉnh tỉnh thức, thức tỉnh tỉnh
Bốn góc đạp đất chớ chinh nghiêng.”

Lời nhắc nhở mạnh mẽ: hãy tỉnh thức! Hãy vững vàng giữa đời, đừng để tâm mình nghiêng ngả theo gió bão vô minh.

“Người nào nơi đây tin được đến
Trên đảnh Tỳ-lô cất bước đi
Hét!”

Một tiếng hét cuối bài thơ – như cú đập mạnh khiến những ai còn mơ màng phải giật mình bừng tỉnh. Nếu ai hiểu được điều này, thì ngay tại đây, ngay bây giờ, có thể cất bước trên đảnh Tỳ-lô – tức là đạt đến cảnh giới viên mãn, không còn bị trói buộc trong vòng sanh diệt.

Một Lời Nhắc Giữa Cơn Mộng Thế Gian

Bài thơ “Bài ca về Phật và tâm” không phải để ngợi ca Phật, cũng không phải để khuyến khích ai đó tìm tâm. Nó là một nhát búa đánh vỡ những vọng tưởng sai lầm, khiến người đọc phải đối diện với chân lý bằng chính nhận thức của mình.

Phật không ở đâu xa. Phật cũng không phải một thực thể cần tìm kiếm. Phật chính là ngay trong tâm này – nhưng nếu còn chấp vào “có tâm” hay “không tâm”, thì vẫn chưa thể thấy được.

Cũng như sóng và nước, sóng tuy mang hình tướng, nhưng chưa bao giờ tách rời khỏi nước. Khi hiểu điều này, ta sẽ không còn chạy theo danh xưng, không còn lầm lạc giữa đúng sai, được mất. Ta sẽ sống trọn vẹn giữa đời mà không còn bị đời cuốn trôi.

Chỉ cần một niệm buông xuống – là bỗng chốc thong dong giữa cõi trời.

*

Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291), tên thật là Trần Tung, là một thiền sư lỗi lạc đời Trần, đồng thời là anh trai của Trần Hưng Đạo. Ông không chỉ giỏi binh pháp, từng góp công lớn trong kháng chiến chống Nguyên Mông, mà còn là bậc cao tăng với tư tưởng thiền học sâu sắc. Tuệ Trung không ràng buộc vào hình thức tôn giáo mà đề cao sự tự tại, xem Phật tính vốn sẵn trong mỗi người.

Tác phẩm Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục ghi chép những lời dạy và bài kệ của ông, thể hiện tinh thần thiền phá chấp, tự nhiên mà thâm sâu. Ảnh hưởng của Tuệ Trung đã đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của Thiền phái Trúc Lâm sau này.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *