Bài thơ vần Rẫy
Nhớ ngày tôi vào chơi Hà Tiên
Chiều chiều cùng chị về trong Rẫy
Đường mòn, bóng nhạt soi tà tà
Biển khơi, gió mặn thổi hây hẩy
Giậu thưa, rau muống loe màu xanh
Bờ vắng, chim cu ồn tiếng gáy
Thân cau thương nhớ ai gầy mòn
Tay chuối đợi chờ ai ve vẩy…
Hoa tươi gặp gió tha hồ rung
Trái chín gần tay tự do hái
Đời người đã thong thả thế ru?
Đời người đã sung sướng đến vậy:
Vườn cây, gió thổi lộng muôn cành
Nhà cỏ, trăng soi vàng nửa mái.
Thềm trăng, trải chiếu ngồi song song
Bàn chuyện Tam Quốc cười sảng khoái.
Khương Duy mật to như trứng gà
Mã Siêu mặt đẹp như con gái
Mê gái cửa thành giết bố nuôi
Vì nước qua thuyền giành chúa dại
Xót anh, may áo tang ba ngày
Nhớ nghĩa, đường cùng thả giặc chạy
Vận trời thế đất đang chông chênh
Thiên hạ chia ba, ai thắng bại?
Ai ngờ ông trời làm trò đùa
Cả ba chân vạc theo nhau gẫy.
Dần dà nói đến chuyện nhân duyên
Chị có cô cháu tuổi mười bảy
Tóc dài chấm gót má hồng tươi
Mi vòng cánh cung mắt đen láy
Chị ơi! trôi nổi là thân tôi
Cánh buồm bạt gió trôi hồ hải
Than ôi! không có giá liên thành
Để đổi cho tròn viên ngọc ấy!
Xứ người lần lữa gót phiêu linh
Quê cũ cha anh hết trông cậy.
Tấm thân bảy thước chửa ngang tàng
Khói lửa bốn trời đã bốc dậy.
Con thuyền dầu lạc hướng phương nào
Vẫn nhớ ai người nơi tuyệt tái!
Chừng nào mới lại vào Hà Tiên
Chiều chiều cùng chị về trong Rẫy?
Chắc chẳng bao giờ nữa, chị ơi:
“Hoa lưu động khẩu ưng trường tại…”
Bài thơ này được thấy trong tập tuỳ bút của Mộng Tuyết (Thất tiểu muội), nhan đề Dưới mái trăng non, NXB Mạc Lâm, Yễm Yễm thư quán, 72D, Trần Văn Thạch, Sài Gòn tổng phát hành.
*
“Vần Rẫy” – Khúc ngân mơ hồ giữa đời phiêu lãng
Giữa những năm tháng biến động, giữa tiếng bom rền và những bước chân không định hướng của một kẻ phiêu bạt, bài thơ Bài thơ vần Rẫy của Nguyễn Bính như một khoảng dừng, một khắc lặng tinh tế mà tha thiết của một tâm hồn khát khao yêu thương và bấu víu vào ký ức đẹp đẽ nơi một chốn từng qua.
Chỉ bằng những câu thơ tưởng như giản dị, Nguyễn Bính đã vẽ nên một bức tranh Hà Tiên thơ mộng và sâu lắng. Có con đường mòn bóng chiều tà phủ nhẹ, có gió biển hây hẩy mằn mặn, có giậu thưa rau muống xanh mướt, có chim cu gáy gù trên bờ vắng, có thân cau gầy guộc trông ngóng, có tay chuối ve vẩy như vẫy gọi ai về… Tất cả những hình ảnh ấy, dù bình dị, lại thấm đẫm nỗi nhớ thương – như thể cả khu rẫy nhỏ ấy đang sống bằng một nhịp thở riêng, một nhịp thở chậm rãi, thanh bình, đối lập hoàn toàn với cái ồn ã, hỗn loạn ngoài kia.
Người đọc bắt gặp ở đây một Nguyễn Bính của nỗi cô đơn kiêu hãnh, một Nguyễn Bính phiêu lãng, vừa tỉnh vừa say, vừa trần thế mà cũng vừa xa lạ với đời. Ông không chỉ dạo chơi rẫy với chị bạn, ông bước vào đó như bước vào một thế giới khác, nơi con người được “ngồi song song bàn chuyện Tam Quốc”, cười đùa thoải mái, nhớ nghĩa quên thù, bàn đến vận trời thế đất… Ấy là lúc thơ ông tràn đầy chất mộng, chất lãng tử của một tâm hồn giàu xúc cảm, thích tìm sự thật trong hoài niệm.
Nhưng đẹp và đau nhất là đoạn thơ cuối khi ông nói về “cô cháu mười bảy tuổi” với hình ảnh “tóc dài chấm gót, mắt đen láy” – đó là khoảnh khắc lòng ông xao động, nhưng cũng là lúc ông bừng tỉnh trước thực tại của thân phận “trôi nổi”, “bạt gió”, là kẻ chẳng có gì trong tay để “đổi cho tròn viên ngọc ấy”. Tình cảm thoáng qua mà da diết, khao khát một điều đẹp đẽ nhưng bất lực, đành để nó rơi vào cõi tiếc nuối vĩnh viễn.
Đọc bài thơ, ta nhận ra Nguyễn Bính không viết để kể một cuộc dạo chơi hay một cơn cảm nắng đầu xuân. Ông đang tự hát lên khúc nhạc đời mình – khúc nhạc của người nghệ sĩ giữa hai bờ thực và mộng, giữa một hiện tại khói lửa và một quá khứ dịu dàng như trăng non. Trong những câu thơ cuối, ông buông một tiếng thở dài:
“Chừng nào mới lại vào Hà Tiên / Chiều chiều cùng chị về trong Rẫy? / Chắc chẳng bao giờ nữa, chị ơi…”
– và kết lại bằng một câu chữ Hán đầy cảm khái: “Hoa lưu động khẩu ưng trường tại” – hoa nói lời ly biệt, nhưng lẽ nào vẫn còn mãi? Đó là lời tự hỏi cho chính ông và cũng là cho đời.
Thông điệp của Bài thơ vần Rẫy không nằm ở câu chuyện, mà nằm ở cái nhìn đau đáu của Nguyễn Bính dành cho những điều đẹp đẽ nhưng mong manh, những hoài niệm tưởng như vụn vặt nhưng lại là nơi nương náu cuối cùng cho một tâm hồn không còn nơi bám víu. Qua bài thơ, ông nhắn nhủ: giữa bể dâu cuộc đời, đôi khi điều quý giá nhất không phải là những gì ta đạt được, mà là những kỷ niệm ta đã một lần nâng niu, dẫu biết sẽ không bao giờ trở lại.
Một bài thơ có thể ngắn, nhưng dư âm của nó – cũng như “vần Rẫy” trong lòng người thi sĩ – sẽ mãi ngân vang như tiếng gió Hà Tiên, như lời thì thầm của đất trời gọi về một cõi lặng trong tim.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý