Bàn tay ta
Chúng nó đã nghìn đời quen ăn cỗ sẵn;
Quen ngồi trên lưng hàng triệu người: êm lắm!
Đã một thằng vua ngoái cổ kiếm ăn,
Bíu tay ngai, hòng liếm đĩa mấy lần!
Lại đến lom khom một thằng tổng đốc
Đôi mắt cáo đặt trên mồm há hốc,
Chiếc ghế bành tổng thống mọt lòi phơi
Đã lăn chiêng – còn cố bắc lên, ngồi!
Đi không nỡ, bỏ không đành,
Tiếc quá những mâm vàng, choé sử,
Tiếc quá những sân để cho ngài ngự,
Những thềm cao trăm bậc, chộ người ta,
Tiếc những lưng áo gấm cúi rạp bày hoa,
Tiếc những lính chào ưỡn mình như gỗ!
Biết mặt đất đang vỡ thành núi lửa,
Bay vẫn còn ngồi rốn, mặt nhầy tanh,
Cố vét ăn, vét mặc, vét quyền hành.
Trong buổi chiều khâm liệm,
Những giai cấp chúng bay
Còn rặn được tên Ngô Đình Diệm.
Cái bã cuối cùng của khúc ruột già già khọm
Được đặt vào dinh;
Nó ngồi ô tô; nó đứng duyệt binh;
Nó kết ân tình với những thây ma lịch sử!
*
Trên bàn tay ta khổng lồ
Đứng tên lùn Ngô Đình Diệm.
Nó hết sức cắn, quào, đâm, chém,
Bàn tay ta nhiều chỗ bật máu tươi.
Nhưng bàn tay ta ngón dựng lên rồi
Bàn tay đồng bằng – núi non đứng dựng,
Khí huyết mười phương đổ về sừng sững,
Những ngón tay đang bóp lại, không một sức nào ngăn,
Như những núi cao đã xuống đất, đi chân;
Tên lùn Ngô chạy quanh trong lòng chảo,
Càng chạy càng lùn, càng lún sâu điên đảo!
Bàn tay ta là đất nước non sông,
Là phố xá Sài Gòn, là đồn điền ở Kông Tum;
Bay có lúc dong xe, ngọc vàng tràn ngập,
Lên xuống những cầu thang, ra vào dinh Độc lập,
Tưởng như nhà cửa, ruộng đất, trời mây,
Bát đĩa, mâm bàn là của chúng bay!
Nhưng cả non sông là một bàn tay.
Hết chợ thì quê, bến thuyền, đường sá,
Ba gạc trên cây, hầm trong kẽ đá,
Một viên gạch trong dinh, một đinh ốc dưới cầu,
Xe ở gara, gối ở trên lầu,
Tất, tất cả dính liền vào gốc đất:
Vĩ đại bàn tay, Mê Kông là máu uất!
*
Chúng bay đi, cuống quít trối già,
Những tận cùng giai cấp sắp ra ma!
Tiền bạc nốt hãy uống vào cổ họng!
Cởi áo gấm, bọc lấy vàng cả đống!
Nhưng bao nhiêu nhà tù cũng rỗng,
bao súng ống cũng như que;
Bàn tay khổng lồ khép lại
như định mệnh khắt khe;
Hết phương rồi, quân phản người, phản nước;
Cả giai cấp chúng mày, không chỗ rúc!
18-5-1961
*
Bàn Tay Nhân Dân – Sức Mạnh Xóa Bỏ Bất Công
Bài thơ Bàn tay ta của Xuân Diệu là một bản cáo trạng đanh thép, vạch trần bản chất tàn bạo, tham lam của giai cấp thống trị cũ, đồng thời ca ngợi sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Với giọng thơ dồn dập, hình ảnh mạnh mẽ, bài thơ không chỉ phản ánh một giai đoạn lịch sử đau thương mà còn là lời khẳng định hùng hồn về quyền làm chủ của nhân dân.
Sự suy tàn của giai cấp thống trị
Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu tái hiện hình ảnh những kẻ cầm quyền thối nát, đã quen sống trên sự áp bức và bóc lột:
“Chúng nó đã nghìn đời quen ăn cỗ sẵn;
Quen ngồi trên lưng hàng triệu người: êm lắm!”
Bằng giọng điệu mỉa mai, tác giả vạch trần sự tham lam đến tận cùng của những kẻ thống trị, từ vua chúa, tổng đốc đến những kẻ tiếm quyền sau này. Chúng bấu víu vào ngai vàng, tiếc nuối những bậc thềm cao, những lời xưng tụng giả dối, những binh lính cúi rạp như tượng gỗ. Nhưng lịch sử đã đến lúc phán xét, mọi quyền lực giả tạo đó chỉ còn là những thứ mục ruỗng:
“Trong buổi chiều khâm liệm,
Những giai cấp chúng bay
Còn rặn được tên Ngô Đình Diệm.”
Ngô Đình Diệm – kẻ đại diện cuối cùng của chế độ tay sai, được ví như “cái bã cuối cùng của khúc ruột già già khọm”, một tàn dư tồi tàn của quá khứ đang hấp hối. Nhưng dù có cố bấu víu vào quyền lực, hắn cũng không thể thoát khỏi số phận đã được định đoạt.
Bàn tay nhân dân – sức mạnh của lịch sử
Trước những kẻ áp bức, nhà thơ không dùng lời than trách mà vẽ nên một hình ảnh đầy kiêu hãnh:
“Trên bàn tay ta khổng lồ
Đứng tên lùn Ngô Đình Diệm.”
Bàn tay ấy chính là nhân dân, là đất nước, là sức mạnh vô biên của cách mạng. Ngô Đình Diệm – kẻ từng thống trị một vùng đất, giờ đây chỉ là một bóng dáng nhỏ bé, vùng vẫy tuyệt vọng nhưng không thể thoát ra. Bàn tay ấy không chỉ là biểu tượng của quyền lực nhân dân mà còn là sức mạnh có thể bóp nát mọi ách áp bức:
“Những ngón tay đang bóp lại, không một sức nào ngăn.”
Xuân Diệu đã sử dụng hàng loạt hình ảnh đối lập để nhấn mạnh sự đối kháng giữa nhân dân và kẻ thống trị: một bên là “bàn tay khổng lồ” đại diện cho chính nghĩa, một bên là “tên lùn” tượng trưng cho sự suy tàn, bạc nhược. Hình ảnh “tên lùn chạy quanh trong lòng chảo” càng làm nổi bật sự tuyệt vọng của những kẻ sắp bị quét sạch khỏi dòng chảy lịch sử.
Tổ quốc – một bàn tay bất diệt
Đi xa hơn, Xuân Diệu không chỉ dừng lại ở một cuộc đấu tranh nhất thời, mà còn khẳng định sức mạnh trường tồn của nhân dân, của đất nước. Ông mở rộng hình tượng bàn tay, không chỉ bóp nát kẻ thù mà còn bao trùm cả non sông:
“Bàn tay ta là đất nước non sông,
Là phố xá Sài Gòn, là đồn điền ở Kông Tum;”
Cả một giang sơn gấm vóc, từ thành thị đến thôn quê, từ dòng sông Mê Kông đến những viên gạch trong dinh thự, tất cả đều thuộc về nhân dân. Những kẻ thống trị chỉ là những kẻ chiếm đóng tạm thời, tưởng rằng mình làm chủ nhưng thực chất đang đứng trên một bàn tay không thuộc về chúng.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “bàn tay khổng lồ khép lại như định mệnh khắt khe” – một lời tuyên án không thể đảo ngược. Không còn chỗ dung thân cho những kẻ phản bội nhân dân, không còn nơi trốn chạy cho những kẻ đã từng đàn áp, bóc lột.
Lời kết – Một tiếng thơ căm giận và kiêu hãnh
Bằng ngôn ngữ mạnh mẽ, hình ảnh sắc nét và giọng điệu đanh thép, Xuân Diệu đã biến Bàn tay ta thành một bản anh hùng ca của nhân dân. Bài thơ không chỉ là sự tố cáo chế độ cũ mà còn là niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của cách mạng, vào quyền làm chủ của nhân dân.
Những kẻ độc tài, tham lam có thể ngồi trên ngai vàng, có thể dùng vũ lực để đàn áp, nhưng rồi chúng cũng chỉ là những “tên lùn” bị lịch sử nghiền nát. Và trên tất cả, bàn tay vĩ đại của nhân dân vẫn sẽ tiếp tục vươn lên, xây dựng một đất nước công bằng, tự do, vững bền.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý