Bội lan hành
Nhẫn thu lan dĩ vi bội
(Ly tao)
Trăm kém hai dòng lệ
Gởi lại Mái Trăng Non
Gởi theo gió ly tán
Khắp làng thơ đau buồn
Lệ khô lòng tấm tức
Chưa hết nỗi oan hờn
Lệ khô rồi lệ nhỏ
Quán khách khóc cô đơn
Mực đọng sầu trên giấy
Vần gieo lòng bài thơ
Lệ gieo lòng đau khổ
Sương đọng trên cành khô
Lệ đọng sầu trên gối
Thuyền neo bến mộng bơ vơ
Non xanh xanh
Nước xanh xanh
Non tan tành
Nước tan tành
Gởi ai nước non bài hành…
*
Bội Lan Hành – Khúc Hành Ca Của Nỗi Đau Ly Biệt
Bài thơ Bội lan hành của Đông Hồ vang lên như một tiếng khóc trầm uất, một nỗi đau sâu lắng và dai dẳng trong tâm hồn kẻ lữ hành cô độc. Lời thơ là những giọt lệ thầm lặng, rơi trên trang giấy, rơi vào lòng người, rơi xuống giữa cuộc đời bấp bênh và đầy chia ly.
Những giọt lệ của kẻ ly khách
“Trăm kém hai dòng lệ
Gởi lại Mái Trăng Non
Gởi theo gió ly tán
Khắp làng thơ đau buồn”
Ngay từ những câu mở đầu, Đông Hồ đã vẽ lên một nỗi buồn man mác, một sự chia lìa không thể vãn hồi. Giọt lệ nơi đây không chỉ là biểu tượng của bi ai, mà còn là minh chứng cho những gì đã mất. Nhà thơ gửi những giọt lệ ấy vào gió, vào trăng, vào những con chữ – như một nỗ lực níu kéo nhưng vô vọng, bởi nỗi đau vẫn cứ lan rộng, chảy tràn khắp làng thơ, ngập tràn trong từng vần điệu.
Lệ khô nhưng nỗi đau còn mãi
“Lệ khô lòng tấm tức
Chưa hết nỗi oan hờn
Lệ khô rồi lệ nhỏ
Quán khách khóc cô đơn”
Nỗi buồn không chỉ là một khoảnh khắc, mà là một hành trình kéo dài mãi không dứt. Lệ đã khô, nhưng lòng vẫn còn tấm tức, hờn oan vẫn chưa thể nguôi ngoai. Kẻ lữ khách nơi quán trọ hoang vắng chẳng thể giãi bày, chỉ có sự cô đơn bủa vây, chỉ có nỗi đau âm ỉ, rỉ máu từng câu chữ.
Khi sầu hóa thành thơ, khi thơ trở thành tiếng khóc
“Mực đọng sầu trên giấy
Vần gieo lòng bài thơ
Lệ gieo lòng đau khổ
Sương đọng trên cành khô
Lệ đọng sầu trên gối”
Mực không còn là mực, mà là nỗi sầu đọng lại trên trang giấy. Thơ không chỉ là thơ, mà là những tiếng nấc nghẹn ngào. Đông Hồ đã biến những dòng thơ thành một thứ gì đó hữu hình, cảm nhận được, như giọt lệ đọng trên khóe mắt, như sương rơi trên cành khô, như nỗi buồn quặn thắt không thể xóa nhòa.
Tàn cuộc mộng, chỉ còn đổ nát
“Thuyền neo bến mộng bơ vơ
Non xanh xanh
Nước xanh xanh
Non tan tành
Nước tan tành”
Bến mộng từng là nơi neo đậu của những khát vọng, những ước mơ, những tình cảm chưa tròn vẹn. Nhưng giờ đây, tất cả chỉ còn là bơ vơ, là tan tác. “Non xanh xanh, nước xanh xanh” – vẻ đẹp thiên nhiên vẫn đó, nhưng rồi cũng đến lúc “Non tan tành, nước tan tành” – mọi thứ đều đổ vỡ, như một định mệnh không thể tránh khỏi.
Thông điệp: Một lời gửi gắm vào nước non, vào thời gian
“Gởi ai nước non bài hành…”
Câu kết như một lời thở dài của kẻ lữ hành, gửi lại tất cả cho nước non, cho không gian và thời gian. Nỗi đau này, bài hành này, không phải chỉ riêng của một người, mà là của muôn kiếp nhân sinh, của những ai từng mang trong mình niềm tiếc thương khôn nguôi.
Bằng giọng thơ trầm buồn, Bội lan hành không chỉ là tiếng khóc cho một nỗi chia ly, mà còn là sự phản chiếu của những mất mát, bể dâu trong dòng chảy vô tận của cuộc đời. Lời thơ khắc khoải, mà cũng đầy ám ảnh, như một vết thương mãi chẳng thể lành.
*
Đông Hồ – Nhà thơ và người bảo tồn văn hóa dân tộc
Đông Hồ (1906-1969), tên thật Lâm Tấn Phác, là một nhà thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học có tầm ảnh hưởng lớn đối với nền văn học Việt Nam. Sinh ra tại Hà Tiên, vùng đất giàu truyền thống văn hóa, ông sớm bộc lộ niềm say mê đối với quốc văn và quốc ngữ, từ đó dành trọn đời để nghiên cứu, giảng dạy và sáng tác bằng tiếng Việt.
Là thành viên của nhóm “Hà Tiên tứ tuyệt”, Đông Hồ không chỉ sáng tác thơ mà còn viết văn, ký, khảo cứu, góp phần quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy văn hóa dân tộc. Ông từng sáng lập Trí Đức học xá, xuất bản tuần báo Sống, điều hành nhà xuất bản Bốn Phương và tạp chí Nhân Loại, với mục tiêu cổ vũ tinh thần dân tộc, đề cao giá trị tiếng Việt.
Thơ và văn của ông nhẹ nhàng, sâu sắc, giàu tình cảm, đi từ thể loại truyền thống đến hiện đại. Những tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến Thơ Đông Hồ, Linh Phượng, Cô gái xuân, Hà Tiên thập cảnh… Bên cạnh đó, ông cũng được biết đến là người tiên phong trong việc phát triển thư pháp chữ Quốc ngữ.
Cuộc đời và sự nghiệp của Đông Hồ là minh chứng cho một tấm lòng tha thiết với văn hóa Việt Nam. Ông mất năm 1969 ngay trên bục giảng khi đang giảng bài thơ Trưng Nữ Vương, để lại một di sản văn học đáng trân trọng.
Viên Ngọc Quý