Bữa liên hoan tỉnh uỷ khu giải phóng
Căn hầm điện sáng vừa tan họp
Pháo hoa sông Hiếu đỏ ngang trời
Liên hoan tỉnh ủy mời tân khách
Súng mũ đầy sân chen tiếng cười…
Cà rốt điểm tươi, giò hộp rán
Cá thu kho lại có tiêu, hành
Xu hào xào với ba-tê nhỏ
Nộm mít non thơm xanh lá chanh.
Bữa tiệc còn nghèo, trên đổ nát
Tiếng cười, tỉnh ủy giàu lạc quan
Đôi bờ sông Hiếu rồi đây sẽ
Thành phố soi gương, rực nắng vàng.
Có rạp chiếu phim, trường đại học
Có nhà thư viện, có công viên
Tàu từ Cửa Việt vào thương cảng
Xưởng máy đăng hàng vượt cát lên.
Miền núi hồ tiêu Của nức chợ
Chia từng khu vực dễ chăn nuôi
Có nhà nghỉ mát hơn Tam Đảo…
Viện Bảo tàng lên chói mặt trời.
Khách nghe nâng chén cùng vui chúc
Nhìn lại đầu ai bạc nửa rồi
Đất nước một vùng bom, sắt thép
Tiếng cười Tỉnh uỷ sáng tương lai.
22-2-1973
*
Bữa Tiệc Giữa Đổ Nát – Niềm Tin Giữa Gian Lao
Giữa những ngày tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh, khi bom đạn còn tàn phá quê hương, có một bữa tiệc đơn sơ nhưng chan chứa niềm tin – bữa tiệc của Tỉnh ủy khu giải phóng. Bài thơ Bữa liên hoan Tỉnh ủy khu giải phóng của nhà thơ Anh Thơ không chỉ tái hiện một khoảnh khắc sinh hoạt bình dị giữa thời chiến, mà còn thắp lên ánh sáng của niềm hy vọng vào tương lai rực rỡ của đất nước.
Bữa Tiệc Đơn Sơ – Tiếng Cười Giữa Gian Khó
Hình ảnh mở đầu bài thơ gợi lên một không gian đầy đối lập:
“Căn hầm điện sáng vừa tan họp
Pháo hoa sông Hiếu đỏ ngang trời
Liên hoan tỉnh ủy mời tân khách
Súng mũ đầy sân chen tiếng cười…”
Một bên là căn hầm tối tăm – nơi những quyết sách được bàn bạc trong khói lửa chiến tranh. Một bên là pháo hoa đỏ rực sông Hiếu – ánh sáng rực lên giữa đêm tối, tựa như tia hy vọng le lói giữa bão giông. Bữa tiệc không lộng lẫy, không có những món cao lương mỹ vị, nhưng chan chứa tình người và tiếng cười lạc quan.
Bữa ăn ấy, tuy còn đơn sơ với những món ăn giản dị:
“Cà rốt điểm tươi, giò hộp rán
Cá thu kho lại có tiêu, hành
Xu hào xào với ba-tê nhỏ
Nộm mít non thơm xanh lá chanh.”
Đó không phải là một bàn tiệc sang trọng, mà là những món ăn giản dị của chiến khu, nhưng được chế biến bằng tất cả sự tỉ mỉ và trân trọng. Củ cà rốt, miếng cá kho, nộm mít non – những thực phẩm tưởng như đơn giản nhưng lại thể hiện tinh thần kiên cường và sáng tạo của những con người nơi chiến tuyến.
Trên Đổ Nát – Giấc Mơ Về Một Tương Lai Tươi Sáng
Dưới ánh đèn hầm và trong tiếng cười rộn rã, những người lãnh đạo đã vẽ nên viễn cảnh tương lai:
“Bữa tiệc còn nghèo, trên đổ nát
Tiếng cười, tỉnh ủy giàu lạc quan
Đôi bờ sông Hiếu rồi đây sẽ
Thành phố soi gương, rực nắng vàng.”
Trên nền bom đạn hoang tàn, họ không chỉ nhìn thấy đau thương mà còn thấy cả những điều tốt đẹp đang chờ phía trước. Sông Hiếu – nơi từng đỏ lửa chiến tranh – rồi sẽ trở thành nơi phản chiếu ánh bình minh của hòa bình. Một thành phố sẽ mọc lên từ những đống tro tàn, với những công trình mang dấu ấn của sự hồi sinh.
“Có rạp chiếu phim, trường đại học
Có nhà thư viện, có công viên
Tàu từ Cửa Việt vào thương cảng
Xưởng máy đăng hàng vượt cát lên.”
Những câu thơ như một bản vẽ sơ khai của tương lai. Nơi đây sẽ có rạp chiếu phim, trường học, thư viện, công viên – những biểu tượng của tri thức và văn minh. Những chuyến tàu sẽ cập cảng, những xưởng máy sẽ mọc lên. Giấc mơ ấy không viển vông, mà là niềm tin mãnh liệt vào sự phát triển của đất nước.
Những Người Kiến Tạo Tương Lai
Những con người đang ngồi quanh bữa tiệc này, dù tóc đã bạc đi vì sương gió chiến trường, nhưng trong mắt họ vẫn sáng lên niềm tin:
“Khách nghe nâng chén cùng vui chúc
Nhìn lại đầu ai bạc nửa rồi
Đất nước một vùng bom, sắt thép
Tiếng cười Tỉnh ủy sáng tương lai.”
Họ không chỉ là những chiến sĩ, mà còn là những người kiến tạo tương lai. Dù bao khó khăn đang bủa vây, dù chiến tranh chưa kết thúc, họ vẫn giữ trong tim ngọn lửa của niềm tin.
Lời Kết – Ánh Sáng Sau Đêm Dài
Bài thơ Bữa liên hoan Tỉnh ủy khu giải phóng không đơn thuần chỉ là bức tranh về một bữa tiệc trong chiến khu, mà còn là biểu tượng của tinh thần lạc quan và niềm tin vào ngày mai. Dù hiện tại vẫn còn nghèo khó, nhưng tương lai sẽ rực sáng. Những con người ngồi đó, với mái đầu đã điểm bạc, với chén rượu đơn sơ trong tay, chính là những người đặt nền móng cho một đất nước ngày mai tươi đẹp.
Chiến tranh có thể tàn phá những công trình, nhưng không thể hủy hoại tinh thần của con người. Và từ những bữa tiệc giản đơn giữa hầm sâu, từ những câu chuyện về một ngày mai rực rỡ, một Việt Nam mới đã bắt đầu hình thành.
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.