Bức thư nhà
Được tin anh, lòng mừng khôn xiết
Trả lời anh, em viết thư này.
Trong màn con đã ngủ say,
Ngoài sân trăng giãi bóng cây la đà.
Nay em kể chuyện nhà anh rõ:
Mẹ bình yên, con nhỏ chịu chơi.
Em không công điểm kịp người,
Lứa tằm, lứa lợn mẹ nuôi vẫn đều.
Việc đoàn thể sớm chiều dẫu bận,
Việc gia đình em vẫn lo toan
Vụ chiêm chăm bón kỹ càng
Lúa đang vào mẩy, ngô đang phơi cờ.
Dạo tháng trước lợp nhà sửa ngõ,
Được bà con giúp đỡ ân cần.
Có chồng là một quân nhân,
Trẻ già vì nể, xa gần mến thương.
Anh lại được ở luôn quân ngũ,
Thực là điều vinh dự cho em.
Xóm làng ai nấy đều khen,
Khen anh đáng mặt thanh niên lúc này.
Mẹ thì bảo: “Chồng mày biết nghĩ,
Chẳng đa mang tình nghĩa riêng tây,
Vâng lời Bác dạy bấy nay,
Trung kia với nước, hiếu này với dân.
Chẳng học thói lần khân những kẻ
Sớm lại chiều hú hí vợ con.
Làm trai nghĩa vụ không tròn,
Thì con người ấy hỏi còn ra chi?”
Anh hăng hái mà đi tiền tuyến!
Đánh quân thù, lập chiến công cao
Cho dù xa cách bao lâu,
Việc nhà em gắng trước sau vẹn tròn.
Săn sóc mẹ chiều hôm ban sớm,
Dậy dỗ con khôn lớn nên người,
Tăng gia vườn ruộng tốt tuơi,
Tháng năm vượt mức, tháng mười bội thu.
Đã khăng khít sông chờ bến đợi,
Dám phôi pha vật đổi sao rời.
Anh yên lòng nhé! Anh ơi!
Em xin xứng đáng là người vợ anh.
Cứ theo thói thường tình nhi nữ
Ai chả mong đôi lứa đề huề.
Làm ăn, chợ búa, hội hè,
Công kia việc nọ đi về có nhau.
Tưởng những lúc qua cầu gánh nặng
Hỏi lòng nào lòng chẳng nhớ nhung!
“Vai mang khăn gói sang sông,
Tội trời thì chịu, theo chồng cứ theo”
Tưởng những lúc yêu chiều khăn gối,
Đêm thu dài, trời tối, mưa mau,
Nỉ non tâm sự cùng nhau,
Giờ đây xa vắng… lộng sao khỏi buồn?
Nhưng đất nước hiện đương có giặc,
Vang miền Nam tiếng thét diệt thù.
Nhẽ đâu nũng nịu sớm trưa!
Nhẽ đâu nhắm mắt làm ngơ cho đành!
Nhẽ đâu chỉ nặng tình chồng vợ?
Nhẽ đâu mà ăn ngủ điềm nhiên
Khi bom giặc Mỹ nổ rền,
Máy bay giặc Mỹ rú trên đầu mình?
Có quyết chí hy sinh chống Mỹ
Cứu nước nhà, bảo vệ xóm thôn,
Mới mong hạnh phúc vuông tròn,
Vợ chồng gần giũ, cha con quây quần.
Người thì đi tòng quân giết giặc,
Kẻ ở nhà sản xuất gấp đôi.
Khó khăn dù đến mấy mươi.
Cũng xin gánh vác thay người ra đi.
Xã ta vừa có kỳ tuyển lựa,
Thanh niên xin nhập ngũ thật đông.
Phong trào tình nguyện, xung phong,
Như rừng gió cuốn, như sông nước tràn.
Em càng nghĩ lòng càng mừng rỡ
Gia đình ta nay đã có anh.
Mong anh nhiệm vụ hoàn thành,
Sao cho trọn nghĩa trọn tình nước non.
Đáp nghĩa mẹ sớm hôm tựa cửa
Bõ công em rày nhớ mai mong.
Có chồng cho đáng tấm chồng,
Xứng danh chiến sĩ anh hùng như ai!
Quê ta đó yên vui đẹp đẽ,
Dân làng ta chăm chỉ cần cù,
Mẹ ta vui việc tằm tơ,
Con ta học nói bi bô suốt ngày.
Bờ sông mới bóng cây đã mát,
Trường cấp hai vừa trát vôi xong.
Trạm bơm máy điện vòi rồng
Phun mưa, hút nước ruộng đồng tốt tươi.
Kho hợp tác sân phơi mở rộng,
Trại chăn nuôi nhiều giống lợn to.
Từ phen cải tiến đến giờ,
Xã ta đổi mới chẳng thua xã người.
Em vừa tính còn vài tháng nữa,
Nghĩa vụ xong anh trở lại nhà,
Cùng nhau chung sức tăng gia,
Mẹ con chồng vợ nhà ta vui vầy.
Nhưng bọn Mỹ là bầy quỉ ác,
Nã đạn bom tàn sát dân ta.
Anh ơi, giặc đã đến nhà,
Đàn bà cũng đánh nữa là đàn ông!
Giờ những buổi ra đồng làm lụng
Chúng em thường liềm súng theo nhau.
Máy bay thằng Mỹ lẻn vào,
Súng trường em cũng bắn nhào, chẳng tha.
Tin chiến thắng tiếng loa vang dội
Cả quê ta sôi nổi lạ lùng.
Máy bay giặc rụng như sung,
Vĩnh Linh, Đồng Hới, Bạch Long, Quảng Bình.
Lại Nghễ Tĩnh sông Gianh, Thanh Hoá
Lại Hòn Mê, Cồn Cỏ, Lạch Trường…
Mẹ già bên cạnh nồi ươm
Nhớ từng chiếu quả, kể từng chiến công
Em cảm thấy vô cùng sung sướng,
Nghe tin đài càng tưởng đến anh.
Đó đây trên đất nước mình,
Chiến công hẳn có phần anh góp vào
Giờ anh ở non cao, biển rộng?
Hay đương trên mâm súng phòng không?
Hay đương ruổi ngựa biên phòng?
Hành quân sông Mã, sông Hồng, sông Lam?
Nhưng em biết rõ ràng, chắc chắn,
Bất cứ đâu anh vẫn kiên cường.
Quyết vì Tổ quốc, quê hương,
Dù cho phải đổi máu xương cũng là!
Cùng chiến đấu cứu nhà cứu nước,
Em mong sao noi được chí anh
Giữ cho đời mẹ yên lành
Giữ cho giấc ngủ con minh thơm ngon.
Giữ vườn ruộng, quê hương, đất nước,
Giữ gia đình hạnh phúc đôi ta.
Anh đi, em ở lại nhà,
Ấy là nghĩa nặng, ấy là tính sâu.
Khi giặc Mỹ thua đau cút thẳng,
Cả hai miền chiến thắng reo vui.
Anh về, đời lại thêm tươi,
Nhà ta vui lại gấp mười ngày nay.
Em dệt lụa, mẹ may áo ấm,
Bố đi về, con quấn theo chân.
Tình chung lại đẹp gối chăn,
Đêm nay nào khác đêm xuân năm nào.
Vợ chồng lại cùng nhau ôn lại,
Những ngày chờ tháng đợi vừa qua.
Cứ như thế ấy mới là!
Chung vui nghĩa nước tình nhà từ đây.
Giấy một mảnh, giãi bày tâm sự
Gửi đến nơi quân ngũ cho anh.
Từng dòng từng chữ đinh ninh,
Phong thư, phong trọn muối tình tối đa.
Anh giữ lấy thư nhà một bức,
Tấm lòng em chân thực thiết tha
Những khi đêm vắng chiều tà,
Giở thư, thấy chữ như là thấy nhau.
Trước em gửi lời chào đơn vị
Sau chúc anh mạnh khoẻ, bình yên.
Dặn anh, nhớ nhé, đừng quên!
Mỗi kỳ chiến thắng thì biên thư về.
Nam Định, xuân 1986
Năm 1965, Hoa Kỳ đem thêm quân vào miền Nam, thanh niên miền Bắc đang có phong trào Vì miền Nam ruột thịt, thanh niên trai tráng tình nguyện lên đường vào Nam đánh Mỹ. Hồi đó bỗng có một bài thơ Chinh phụ tân thời lưu truyền trong dân gian, thác lời một người vợ bộ đội than thở cảnh vợ chồng chia biệt, với những lời lẽ uỷ mị. Nguyễn Bính liền viết bài thơ Bức thư nhà cũng là lời lẽ một vợ chiến sĩ gửi cho chồng để bút chiến lại bài Chinh phụ tân thời.
Bài thơ được Chu Văn (1922-1994) đánh giá như sau: “Bức thư nhà lời lẽ trau chuốt, mượt mà, phong cách dân gian, đọc trong các cuộc họp đã hay, nhưng chính là những lúc một mình ngâm ngợi, hoặc ru con, đi rất sâu, và gợi rất trúng. Cũng lạ. Từ đó không thấy ai nhắc đến cái bài vè Chinh phụ tân thời ướt át, não nề trước kia nữa.”
*
“Bức thư nhà” – Bài ca nghĩa nước tình nhà từ đôi tay người vợ
Giữa những năm tháng đất nước cuộn mình trong khói lửa chiến tranh, khi bao người con lên đường vào Nam đánh giặc, bài thơ “Bức thư nhà” của Nguyễn Bính như một làn gió mạnh mẽ, xua tan lớp sương ủy mị từng phủ bóng trong những lời than vãn não nề của “Chinh phụ tân thời”. Được viết dưới hình thức một bức thư, nhưng mỗi câu thơ là một lời tâm tình sâu sắc, mỗi đoạn là một mạch cảm xúc chân thành mà kiên cường của người vợ gửi đến chồng – người lính nơi tiền tuyến.
“Bức thư nhà” không chỉ là một bức thư, mà là một tượng đài nhỏ mang hình dáng người phụ nữ Việt Nam thời chiến. Họ không chỉ ở nhà nuôi con, chăm mẹ, mà còn gánh vác cả quê hương trên vai. Người vợ trong bài thơ không than vãn, không tủi hờn, mà bước lên như một người đồng hành của chồng trong cuộc kháng chiến, từ việc ruộng vườn, lo toan đời sống đến cầm súng khi kẻ thù xâm lấn.
Chị viết thư khi “trăng giãi bóng cây la đà”, khi con đã ngủ và lòng tràn đầy thương nhớ. Nhưng điều lạ lùng và xúc động nhất, là trong từng con chữ của chị không có bóng dáng yếu mềm mà chỉ thấy niềm tin sắt đá, tinh thần bất khuất và một tình yêu lớn vượt lên mọi nỗi nhớ nhung thường tình.
Chị không chỉ viết về gia đình, mẹ, con, ngõ mới, nhà sửa, mà còn viết về quê hương đổi mới, về xã viên tình nguyện nhập ngũ, về trạm bơm, trường cấp hai, kho hợp tác, trại nuôi lợn. Tất cả hiện lên như một bản tình ca của lao động và niềm tin, cho thấy chị là một phần của đất nước đang vươn dậy từ gian khó, không hề đứng ngoài cuộc.
Nhưng trong bức thư đó, cũng không thiếu những phút giây đầy nữ tính, đầy khát khao. Những hình ảnh “vai mang khăn gói sang sông”, “đêm thu dài, trời tối, mưa mau”, hay “nỉ non tâm sự cùng nhau” hiện lên như một tiếng thở rất thật, rất người. Thế nhưng, ngay sau đó, chị khép lại những mơ mộng ấy bằng một sự tỉnh táo và lòng tự hào:
“Nhẽ đâu chỉ nặng tình chồng vợ? / Nhẽ đâu mà ăn ngủ điềm nhiên / Khi bom giặc Mỹ nổ rền…”
Ở chị, tình yêu không làm mềm yếu con tim mà làm nó thêm can đảm. Tình yêu ấy, không bị bó gọn trong mái ấm hai người mà hòa cùng dòng chảy của lịch sử, hòa vào vận mệnh đất nước. Chị hiểu rõ: muốn có ngày sum vầy, phải cùng nhau gánh vác gian khổ hôm nay.
Bức thư ấy còn là một bản hùng ca của hậu phương, khi người vợ cầm súng cùng những chị em khác “ra đồng làm lụng, liềm súng theo nhau”, bắn trả máy bay Mỹ bằng lòng quả cảm của chính mình. Hình ảnh ấy như một minh chứng hùng hồn cho câu kết rắn rỏi của chị:
“Đàn bà cũng đánh nữa là đàn ông!”
Người phụ nữ trong thơ Nguyễn Bính không còn là nàng thơ e ấp dưới hoa cau, không còn là người con gái trong “Lỡ bước sang ngang” với duyên phận dở dang. Ở đây, chị là một người vợ nặng tình mà kiên cường, là hiện thân của hậu phương vững vàng, là biểu tượng của lòng yêu nước sâu xa mà tự nhiên như hơi thở.
Thông điệp của bài thơ vô cùng rõ ràng và mạnh mẽ: tình vợ chồng chỉ thật sự trọn vẹn khi biết đặt trong tình yêu lớn với đất nước. Chỉ khi Tổ quốc được bảo vệ, quê hương yên bình, thì hạnh phúc gia đình mới có thể tỏa sáng một cách viên mãn.
Với “Bức thư nhà”, Nguyễn Bính không chỉ viết một bài thơ phản biện lại sự bi lụy của những lời than thân, mà còn dệt nên một tượng đài thơ ca cho những người phụ nữ bình dị mà kiêu hùng trong lịch sử Việt Nam. Bài thơ là tiếng nói của niềm tin, là trái tim hậu phương gửi về tiền tuyến, là ánh sáng từ mái nhà le lói xuyên qua mịt mù khói đạn, soi đường cho những người con đất Việt đang tiến về phía trước.
Một bức thư, một bài thơ, một tấm lòng. Và lớn hơn hết – đó là một khúc tráng ca của dân tộc.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý