Bướm bay vườn cải hoa vàng
Mười năm vườn xưa xanh tốt
Hai mươi năm nắng dọi lều tranh
Mẹ tôi gọi tôi về
Bên bếp nước rửa chân
Hơ tay trên bếp lửa hồng
Đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống.
Tôi không bao giờ khôn lớn
Kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm
Mới hôm qua đây, tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã
trong khu vườn cải hoa vàng
Mẹ và em còn đó
Gió chiều như hơi thở
Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi?
Gió mang tiếng ca. Ngày ra đi em dặn:
“Nếu ngày về thấy khung trời đổ nát,
thì tìm tôi trong tận đáy hồn anh”
Tôi đã về. Có tiếng hát ca, bàn tay trên liếp cửa
Hỏi rằng: “Có tôi hôm nay đây, tôi giúp được gì?”
Gió thì thầm: em nên hát ca
Bởi vì hiện hữu nhiệm mầu
Hãy là đoá hoa, hãy là nụ cười,
Hạnh phúc có bao giờ được dựng xây bằng vôi với gạch?
Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau
Tôi tìm em.
(Như đêm giông tố loạn cuồng
Rừng sâu đen tối
Những cành cây sờ soạng
Đợi ánh chớp loè ngắn ngủi
Thấy cần được hiện hữu bên nhau, tìm nhau)
Em hãy là đoá hoa đứng yên bên hàng dậu
Hãy là nụ cười, là một phần của hiện hữu nhiệm mầu.
Tôi đứng đây. Chúng ta không cần khởi hành
Quê hương chúng tôi đẹp như quê hương của tuổi thơ
Xin đừng ai xâm phạm – tôi vẫn còn hát ca.
Đầu còn gối trên thánh kinh, sáng nay tôi nghe xôn xao trong nắng mai vũ trụ đang được những con ong vàng
siêng năng bắt đầu khởi công tạo dựng
Công trình xây dựng ngàn đời
Nhưng công trình, em xem, đã được ngàn đời hoàn tất
Bánh xe mầu nhiệm chuyển hoài đưa chúng ta đi tới
Nắm lấy tay tôi, em sẽ thấy chúng ta đã cùng có mặt tự ngàn xưa
trong hiện hữu nhiệm mầu.
Tóc mẹ tôi còn xanh, và dài chấm gót
Áo em tôi phơi còn phất phơ bay trước dậu
Nắng sớm mùa thu
Tôi ở đây. Chính thực là vườn xưa
Những cây ổi trái chín thơm
Những lá bàng khô thắm
Đẹp
Rụng
Còn chạy chơi la cà trên sân gạch
Tiếng hát vẳng bên sông
Những gánh rơm thơm vàng óng ả
Trăng lên, quây quần trước ngõ
Vườn cải hoa vàng, chính mắt tôi vừa thấy sáng qua.
Tôi không ngủ mơ đâu,
Ngày hôm nay đẹp lắm, thật mà
Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ
Chúng mình còn đây, hôm nay, và ngày mai nữa,
Đến đây
Khi khát ta cùng uống ở một giếng nước thơm trong.
Ai nói cho em nghe rằng Thượng Đế đã bằng lòng
cho con người khổ đau đứng dậy hợp tác cùng người?
Chúng ta đã từng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp,
Khổ đau vì không tự biết là lá là hoa
Em hát ca đi. Bông cúc cười theo em bên hàng dậu,
Đừng bắt chúng tôi nhúng hai tay vào vôi cát,
Những ngôi sao trời không bao giờ xây ngục thất cho chính mình.
Để cho chúng tôi hát ca. Để cho chúng tôi là những đoá hoa.
Chúng tôi đang ở trong cuộc đời –
mắt chúng tôi chứng minh cho điều ấy.
Bàn tay cũng là hoa. Đừng biến bàn tay em tôi thành dây chằng
Thành khớp răng cưa
Thành móc sắt.
Hiện hữu không kêu gọi tình thương.
Hiện hữu không cần ai phải thương ai
Nhưng em phải là em, là đoá hoa, là bình minh hát ca,
không đắn đo suy tính
Xin ghi vào đây một tân ước nữa của tất cả chúng ta
Và xin vẫn nghe lời tôi như nghe suối reo, như nhìn trăng sáng
Em về, đưa Mẹ về cho tôi thăm
Cho tôi hát em nghe, để tóc em sẽ dài xanh như tóc Mẹ.
(Bài thơ nằm trong Tập thơ Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện (NXB Lá Bối, 1965) gồm những bài thơ kêu gọi hoà bình cho Việt Nam)
*
“Hiện hữu là hoa nở trong nhau”
Giữa tiếng bom đạn xưa cũ và những ngày hôm nay vẫn còn vang vọng u sầu, bài thơ “Bướm bay vườn cải hoa vàng” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một lời cầu nguyện sâu lắng, trầm mặc và chan chứa thương yêu cho hòa bình và cho con người. Đó không chỉ là một áng thơ, mà là bức thông điệp về hiện hữu, về trở về, và về sự chữa lành mà tình thương chân thật có thể mang lại.
1. Trở về: Dấu vết của thời gian trong một chiếc bếp lửa
Bài thơ mở đầu như một khung cảnh chậm rãi trôi ngược vào miền ký ức:
“Mẹ tôi gọi tôi về
Bên bếp nước rửa chân
Hơ tay trên bếp lửa hồng
Đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống.”
Đó không chỉ là cảnh tượng tuổi thơ – mà là một khoảnh khắc vĩnh cửu, nơi thời gian không còn đo bằng năm tháng, mà bằng mùi khói, hơi nước, ánh nhìn của mẹ và nụ cười em. Trong vòng tay của ký ức, con người được chữa lành không phải bởi những lời răn dạy lớn lao, mà bởi sự hiện diện giản dị, tinh khôi của những điều bé nhỏ.
2. Em là hoa, là hát ca – không phải dây chằng, móc sắt
Thiền sư cất lời trong âm hưởng đầy nhẫn nại và từ tâm:
“Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau”
Thông điệp ấy không gắt gỏng, không oán trách – mà như một lời van nhẹ giữa một đêm giông, nơi người ta chỉ cần một ánh chớp để tìm thấy nhau trong tối tăm. Em không phải là chiến binh, không phải là người gồng mình xây ngục thất. Em là một đóa hoa đứng yên bên hàng dậu, là tiếng hát đưa mẹ về thăm tôi.
Đó là một lời mời gọi tỉnh thức: hãy từ chối mọi vai trò áp đặt, mọi bạo lực từ cả bên ngoài và bên trong, để được là chính mình – thuần khiết, mềm mại, và đáng được yêu thương.
3. Hiện hữu nhiệm mầu: Đừng đẩy nhau về quá khứ hay tương lai
“Tôi không ngủ mơ đâu,
Ngày hôm nay đẹp lắm, thật mà”
Câu thơ này như một nắm tay siết chặt người đọc, nhắc nhở rằng chúng ta đang sống – ngay bây giờ – và sự sống đó là một mầu nhiệm. Trong từng hạt nắng, tiếng ong, lá bàng khô hay vườn cải sáng qua, đều có mặt của em, của tôi, của tất cả những người yêu nhau mà chẳng cần nói lời yêu.
Không ai cần đi đâu. Không ai cần dựng xây một thiên đường bằng gạch vôi. Hạnh phúc không thể được kiến tạo bằng bạo lực hay sự hy sinh của chính con người.
4. Một tân ước: Được là hoa, là suối, là trăng sáng
“Xin ghi vào đây một tân ước nữa của tất cả chúng ta”
Đó là một bản khế ước không ký bằng máu hay chữ ký, mà bằng sự thấu hiểu sâu xa rằng tình yêu không cần phải đau khổ, hiện hữu không cần phải thương hại, và mỗi người đều xứng đáng là một đoá hoa tự do nở trong vườn nhân loại.
“Em phải là em, là đoá hoa, là bình minh hát ca”
Đây không chỉ là lời nhắn gửi cho một người con gái, mà cho toàn thể nhân loại: đừng biến tay mình thành móc sắt, đừng ép nhau thành công cụ, đừng xây thêm ngục tù trong tâm hồn.
5. Chúng ta đã từng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp
Khi Thiền sư viết:
“Chúng ta đã từng nắm tay nhau từ muôn vạn kiếp
Khổ đau vì không tự biết là lá là hoa”
người đọc chợt nhận ra rằng hành trình tìm nhau, hiểu nhau, tha thứ cho nhau – không mới mẻ – mà là bản tính nguyên sơ của con người. Khổ đau đến không phải từ hoàn cảnh, mà từ việc đánh mất chính mình, quên rằng mình từng là đóa hoa, là dòng suối, là nụ cười trong ánh sáng ban mai.
Kết: Hoa vẫn nở bên hàng dậu
“Bướm bay vườn cải hoa vàng” là một bài thơ vượt thời gian – không chỉ vì nó chứa đựng tiếng gọi của quê hương, mẹ, em, tuổi thơ, mà còn vì nó là một bản kinh về hiện hữu, về từ bi, về bình an không điều kiện.
“Cho tôi hát em nghe, để tóc em sẽ dài xanh như tóc Mẹ”
Một câu thơ dịu dàng như suối, mà cũng sâu như cội rễ. Thơ của Thiền sư không chỉ để đọc – mà để lắng, để sống, và để soi đường trong những đêm không trăng.
Bởi vì hôm nay, nếu ta nhìn kỹ, vườn cải hoa vàng vẫn nở đó – và em vẫn đứng yên bên hàng dậu, mỉm cười.
*
Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.
Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.
Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.
Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.
Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100m2 được đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.
Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.
Viên Ngọc Quý