Các anh
Các anh hãy chuốc thực say,
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im.
Giờ hình như quá nửa đêm,
Lòng đau, đau lại trái tim cuối mùa.
Hơi đàn buồn như trời mưa,
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi.
Giờ hình như ở ngoài trời,
Tiếng xe đã, nghiến đã rời rã đi.
Tâm tình lạnh nhạt đâu nghe,
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch chiều.
Giờ hình như gió thổi nhiều,
Những loài hoa máu đã giao nối đời.
Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi,
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh.
Sá chi những chuyện tâm tình,
Lòng đau đem chữa trong bình chua cay…
1940
*
Men Rượu, Lòng Người và Những Bi Thương Của Kiếp Đời
Trong không gian đêm khuya lạnh lẽo, giữa hơi men và những nốt nhạc tàn phai, bài thơ Các anh của Thâm Tâm vang lên như một lời tự sự đầy xót xa của kẻ lữ hành cô đơn trên hành trình vô định của kiếp người. Đó không chỉ là câu chuyện về những chén rượu, về những tâm hồn nghệ sĩ phiêu bạt, mà còn là tiếng lòng u uất của cả một thế hệ hoang mang giữa thời cuộc nhiễu nhương.
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, giọng điệu của Các anh đã chất chứa sự bất cần, như một lời mời gọi trong men rượu:
“Các anh hãy chuốc thực say,
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im.”
Không phải là một bữa tiệc vui vẻ, đây là một cuộc rượu của những kẻ chất đầy tâm sự. Họ uống không phải để tìm niềm vui, mà để vùi lấp đi những nỗi đau lặng lẽ gặm nhấm lòng người. Khi “hơi đàn buồn như trời mưa”, khi “âm thừa” cũng trở nên thừa thãi, ta hiểu rằng những con người trong bài thơ không chỉ đơn thuần uống rượu mà đang tìm cách trốn chạy hiện thực.
Thâm Tâm đã dựng lên một khung cảnh tràn ngập sự tàn phai:
“Tâm tình lạnh nhạt đâu nghe,
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch chiều.”
Lá rụng, mùa chết, thời gian trôi qua như một cơn gió lạnh lẽo. Những hình ảnh ấy không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn ẩn dụ cho sự tan tác của những ước mơ, những hoài bão dở dang. Cuộc đời những con người trong bài thơ dường như cũng như những chiếc lá vàng rơi rụng, bất định và mong manh trước giông tố cuộc đời.
Đến những câu thơ cuối, giọng thơ dường như không còn là sự nuối tiếc hay đau khổ nữa, mà là sự chấp nhận đầy chua chát:
“Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh.
Sá chi những chuyện tâm tình,
Lòng đau đem chữa trong bình chua cay…”
Vẻ đẹp và tình cảm đều trở thành thứ phù phiếm, tạm bợ, không đủ sức chống chọi lại những đổi thay của cuộc đời. Nếu cuộc đời là một nỗi đau, thì rượu trở thành phương thuốc duy nhất, dù nó không thực sự chữa lành mà chỉ khiến nỗi đau chìm sâu hơn trong cơn say.
Bài thơ Các anh không chỉ là tiếng nói của một cá nhân mà còn là nỗi lòng của một thế hệ những nghệ sĩ lạc lối, những con người sống trong cảnh loạn lạc, mất phương hướng giữa thời cuộc đầy biến động. Đó là tâm trạng của những người nhìn thấy thế giới xung quanh đang đổi thay, nhưng chính bản thân họ lại không tìm được chỗ đứng giữa dòng chảy ấy.
Với Các anh, Thâm Tâm đã khắc họa một cách chân thực và sâu sắc nỗi buồn của những tâm hồn nghệ sĩ, những kẻ mãi mãi lạc bước giữa cuộc đời, ôm trong mình những hoài niệm đẹp đẽ nhưng cũng đầy bi thương.
*
Thâm Tâm – Nhà Thơ Của Hào Khí Và Ly Biệt
Thâm Tâm (1917–1950), tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, là một nhà thơ và nhà viết kịch tiêu biểu của Việt Nam. Ông được biết đến nhiều nhất qua bài thơ Tống biệt hành, tác phẩm mang phong cách hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại, thể hiện hào khí mạnh mẽ và nỗi bi tráng trong từng câu chữ.
Sinh ra tại Hải Dương trong một gia đình nhà giáo, Thâm Tâm từ nhỏ đã sớm bộc lộ tài năng nghệ thuật. Ông từng kiếm sống bằng nghề vẽ tranh trước khi bước vào con đường văn chương. Những năm 1940, ông hoạt động sôi nổi trên các tờ báo như Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, và đặc biệt thành công với thể loại thơ. Thơ ông đa dạng về cảm xúc, lúc buồn sâu lắng, lúc trầm hùng, bi ai, lúc lại rộn ràng niềm vui.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thâm Tâm tích cực tham gia phong trào văn hóa Cứu quốc, làm biên tập viên báo Tiên Phong rồi nhập ngũ, trở thành thư ký tòa soạn báo Vệ quốc quân (sau này là Quân đội Nhân dân). Ông qua đời đột ngột vào năm 1950 trong một chuyến công tác tại chiến dịch Biên giới, để lại nhiều tiếc thương.
Sinh thời, Thâm Tâm chưa in tập thơ nào, nhưng những sáng tác của ông được tập hợp và xuất bản vào năm 1988 trong tuyển tập Thơ Thâm Tâm. Ngoài Tống biệt hành, ông còn nổi tiếng với các bài thơ Gửi T.T.Kh., Màu máu Tygôn, Dang dở, gắn liền với câu chuyện tình bí ẩn về thi sĩ T.T.Kh.
Bên cạnh thơ, Thâm Tâm còn sáng tác nhiều kịch bản như Sương tháng Tám, Lá cờ máu, Người thợ… Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, khẳng định những đóng góp quan trọng của ông đối với nền văn học Việt Nam.
Với phong cách thơ vừa lãng mạn vừa bi tráng, giàu cảm xúc nhưng cũng đầy hào khí, Thâm Tâm mãi mãi là một trong những gương mặt tiêu biểu của thi ca Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Viên Ngọc Quý.