Cảm nhận bài thơ: Cảm hoá – Bàng Bá Lân

Cảm hoá

Thương gởi hai em Hải, Thanh

Ta vốn thiếu niềm tin từ thuở nhỏ,
Không bao giờ tin là có Thiên Đường.
Vì chỉ ham khoa học với văn chưong,
Cũng chẳng biết Niết Bàn là đâu hết.
Từng thấy những sự sống không thanh khiết,
Và gặp nhiều linh mục chẳng chăn dân.
Cũng hám lợi danh, chức vị cõi trần,
Bỏ Bác Ái, Từ Bi, làm chính trị.
Ta chán ngán bọn lạm danh tu sĩ:
Cạo trọc đầu chưa hẳn đã là sư,
Áo chùng thâm không thành được thầy tu.
Ta buồn chán không muốn làm phật tử,
Còn nhiều bạn thương ta thì lại cứ
Muốn ta thành đệ tử Chúa Giê su,
Đức Mẹ Maria, Đức Mẹ hiền từ,
Tặng kinh sách muốn khiến ta nghiền ngẫm.
Nhưng ta thấy đức tin chưa cần lắm,
Miễn làm sao không hại đến gia thanh.
Ngửa trông lên chẳng hổ với cao xanh,
Cúi nhìn xuống không thẹn mình với đất.
Song càng ngày càng thấy đời bạc ác,
Người với người, lang sói cũng còn thua!
Thiếu niềm tin, ta cảm thấy bơ vơ,
Nhưng chỗ tựa tinh thần chưa nhất quyết
Từ gặp hai em, nghe lòng tha thiết
Cảm mến thương hơn ruột thịt người thân
Em đối với ta cũng rất ân cần,
Nhất từ lúc ta gặp hồi vận nạn.
Chăm sóc thầy thật hết lòng, không quản
Sớm chiều vô bệnh viện chẳng hề sai.
Tiếp thức ăn và an ủi đêm ngày,
Thanh còn hát thầy nghe kinh cầu nguyện
Giọng du dương làm ta thêm quyến luyến,
Yêu thương người, yêu cả Chúa cao sang.
Giọng hát đưa ta vào cõi mơ màng,
Đã tưởng thấy cửa Thiên Đàng rộng mở.
Và từ đó nhìn Nhà Thờ ngờ ngợ
Phải chăng đây là chỗ dựa tinh thần?
Vì tình thương dành cho khắp con dân,
Giàu bác ái ấy là con của Chúa.
Bây giờ đây ta thật lòng cảm hoá,
Nhờ hai em, con của Chúa cao sang,
Càng thương em, càng mến Chúa muôn vàn…


(11-9-1984)

*

“Cảm Hóa” – Khi Tình Thương Thắp Sáng Đức Tin

Có những con người đi qua đời ta, không để lại gì ngoài một cái chào xã giao. Nhưng cũng có những con người, chỉ một lần gặp gỡ, một lần yêu thương, đã làm thay đổi cả một quan niệm, một niềm tin. Bài thơ Cảm Hóa của Bàng Bá Lân là câu chuyện về một tâm hồn từng hoài nghi, từng lạc lối giữa thế gian đầy toan tính, cuối cùng lại tìm thấy ánh sáng của niềm tin nhờ tình thương chân thành của hai người em: Hải và Thanh.

Hoài nghi – Một tâm hồn bơ vơ giữa đời

Bàng Bá Lân mở đầu bài thơ bằng một lời thú nhận chân thành:

Ta vốn thiếu niềm tin từ thuở nhỏ,
Không bao giờ tin là có Thiên Đường.

Ông là người đam mê khoa học và văn chương, luôn hướng về lý trí hơn là đức tin. Trong mắt ông, thế gian này không có thiên đường hay niết bàn, bởi ông chỉ thấy những điều không thanh khiết, những kẻ khoác áo tu hành nhưng không sống đúng với đạo lý mà họ rao giảng:

Cạo trọc đầu chưa hẳn đã là sư,
Áo chùng thâm không thành được thầy tu.

Sự hoài nghi ấy không phải vì ông ghét tôn giáo, mà vì ông thất vọng trước những kẻ lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để mưu cầu lợi danh. Thế gian vốn dĩ đã lạnh lẽo, lòng người càng bạc bẽo, khiến ông càng mất đi chỗ dựa tinh thần.

Lạc lõng – Khi niềm tin chưa có nơi nương tựa

Bàng Bá Lân không phải là người vô thần, chỉ là ông chưa tìm được cho mình một đức tin đủ mạnh mẽ. Ông sống theo nguyên tắc của riêng mình:

Ngửa trông lên chẳng hổ với cao xanh,
Cúi nhìn xuống không thẹn mình với đất.

Chỉ cần sống ngay thẳng, không hại ai, thế là đủ. Nhưng khi đối diện với một xã hội đầy giả dối, con người đối xử với nhau còn tàn nhẫn hơn loài lang sói, ông dần cảm thấy bơ vơ, thiếu một điểm tựa tinh thần.

Tình thương – Ánh sáng dẫn đường

Và rồi ông gặp hai người em – Hải và Thanh. Chính sự quan tâm chân thành của họ đã thay đổi ông. Đặc biệt là trong những ngày ông đau bệnh, họ đã tận tụy chăm sóc, không quản ngại sớm khuya:

Chăm sóc thầy thật hết lòng, không quản
Sớm chiều vô bệnh viện chẳng hề sai.

Tình thương của họ không đơn thuần là tình cảm cá nhân, mà còn là tình thương mang đậm tinh thần bác ái của Chúa. Thanh còn hát kinh cầu nguyện, giọng hát dịu dàng ấy đã khiến tâm hồn ông rung động:

Giọng du dương làm ta thêm quyến luyến,
Yêu thương người, yêu cả Chúa cao sang.

Trong khoảnh khắc đó, ông không còn là một con người hoài nghi, mà đã bắt đầu cảm nhận được sự tồn tại của một điều gì đó thiêng liêng. Nhà thờ – nơi mà trước đây ông chỉ nhìn bằng ánh mắt xa lạ – bỗng trở nên gần gũi hơn:

Và từ đó nhìn Nhà Thờ ngờ ngợ
Phải chăng đây là chỗ dựa tinh thần?

Cảm hóa – Khi đức tin được thắp sáng bằng tình người

Sự cảm hóa không đến từ những giáo điều cứng nhắc, mà đến từ tình thương chân thành. Hải và Thanh không dùng lời lẽ để thuyết phục ông tin vào Chúa, mà chính hành động của họ đã khiến ông tự nguyện mở lòng mình.

Bây giờ đây ta thật lòng cảm hoá,
Nhờ hai em, con của Chúa cao sang,
Càng thương em, càng mến Chúa muôn vàn…

Câu kết của bài thơ là một sự thay đổi đầy sâu sắc. Từ một người từng hoài nghi, ông đã tìm thấy niềm tin nhờ tình thương. Không phải những triết lý cao siêu, không phải những lý luận giáo điều, mà chính lòng tốt và sự hi sinh vô điều kiện của con người mới có sức mạnh cảm hóa lớn nhất.

Lời kết

Bài thơ Cảm Hóa của Bàng Bá Lân không chỉ là câu chuyện về một cá nhân tìm lại niềm tin, mà còn là một thông điệp sâu sắc về giá trị của tình thương. Đức tin không phải là thứ có thể áp đặt hay cưỡng cầu, mà nó phải được thắp sáng bằng những điều giản dị nhất: một cử chỉ ân cần, một sự quan tâm chân thành, một tấm lòng vị tha.

Tôn giáo, suy cho cùng, không nằm ở những hình thức bên ngoài, mà ở cách con người đối xử với nhau. Khi có tình thương, lòng người sẽ tự khắc tìm thấy ánh sáng của đức tin. Và có lẽ, điều kỳ diệu nhất trên đời không phải là phép màu từ trời cao, mà là những con người bình dị bên ta, những người âm thầm soi sáng con đường ta đi bằng chính trái tim nhân hậu của họ.

*

Bàng Bá Lân – Nhà thơ của hồn quê Việt

Bàng Bá Lân (1912–1988) là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, nổi bật với những vần thơ mộc mạc, giản dị nhưng thấm đẫm tình quê hương và nhân sinh. Ông là một trong những gương mặt chủ chốt của phong trào Thơ Mới, với phong cách trữ tình, nhẹ nhàng và giàu hình ảnh.

Thơ Bàng Bá Lân phản ánh vẻ đẹp của làng quê Việt Nam, từ những buổi trưa hè, xóm chợ chiều đông đến hình ảnh mái trường làng, vườn dừa xanh mướt. Bên cạnh đó, ông còn có những vần thơ sâu sắc về tình yêu, hoài niệm và triết lý nhân sinh. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm Trưa hè, Xóm chợ chiều đông, Vườn dừa, Giai nhân…

Không chỉ là nhà thơ, Bàng Bá Lân còn là nhà giáo và nhiếp ảnh gia, để lại dấu ấn sâu đậm trong văn hóa Việt Nam. Thơ ông như một bức tranh làng quê yên bình, là tiếng lòng của những tâm hồn yêu thương vẻ đẹp dung dị mà vĩnh hằng của đất nước.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *