Căm hờn
Đã đứng lên, những con người uất ức,
Những thế hệ nuốt oan hờn giữa ngực;
Đã đứng lên những chiến sĩ, những anh hùng,
Những gươm thiêng, những giáo nhọn, những gan đồng,
Những dạ sắt: đã đứng lên tất cả!
Giã từ quá khứ trăm năm hận,
Một bước sa cơ tủi vó hùm!
Ngoảnh lại thời gian, bao hậm hực!
Lỡ đường, nên nỗi giận trăm năm.
Đã cháy rồi, ánh sáng giữa đêm tăm;
Đã mọc giậy sao vàng trên nếp gió.
Trong thắm thiết, giữa bầu vinh dự đỏ;
Máu này là sắc đỏ của lòng dân.
Lũ chúng bay, loài bạc ác vô nhân
Xây sung sướng trên nhọc nhằn kẻ khác;
Lấy gian khổ của người làm cực lạc,
Rượu mồ hôi nước mắt, bánh xương tuỷ tim gan,
Thịt nhân quần, chúng mày vẫn uống ăn!
Sao này là ngôi sao dắt nẻo,
Máu này là máu để đưa đường.
Đỏ này quả quyết như bàn thạch,
Vàng này là một ánh triều dương.
Từ không gian đưa lại tiếng trăm phương,
Từ mặt đất nảy lên bao quyết chiến,
Từ cây cối mầm ra muôn sức điện,
Nước non này hiển hiện thế hiên ngang.
– Sông trườn dài giẫy giụa đuổi sài lang,
Núi dựng đứng hỏi chân trời độc lập;
Làng mạc thét từng mỗi thôn mỗi ấp,
Rặng tre thành gậy gộc, bờ bụi hoá thừng giây,
Sắt đồng thành giáo mác, cành nhánh hoá chân tay,
Đất thành khối, cát quây quần ném đá:
Nghìn nghị lực đã đứng lên tất cả!
Lũ chúng bay tàn tạ, hết cầu mong!
Máu này là máu giòng anh hùng.
Đã chảy trên non, chảy dưới đồng,
Đã chảy trên quân Nguyên, trên giặc Mãn,
Đỏ này là đỏ khối hồn chung.
Vì tới đây đoàn lũ tám mươi đông,
Bay đã nhục cả đến loài cây cỏ.
Người chẳng phục; cho đến thân ngựa chó
Cùng gặm gừ căm giận mặt quân bay.
Xiềng đã kêu trên nghìn vạn cổ tay,
Xích đã siết những cuộc đời hảo hán;
Mặt đã vỡ, óc đã rời trên trán,
Tay lìa thân, đầu rụng, tiếc đau thương
Cho một loài khát máu; tiếc vô lương!
Những Bản Thuột, những Kon Tum, Lao Bảo,
Những Bà Ráá, những Sơn La, Côn Đảo,
Còn rừng thiêng nước độc, còn núi hiểm đèo cao,
Còn cát khô, đảo vắng, biển sâu nào
Bay chẳng đoạ những anh hùng, chiến sĩ?
– Bay cố nhốt trong lao tù ích kỷ
Cả lòng yêu, ý tốt của trời Nam.
Máu này là máu lòng căm hận
Đỏ bởi tim gan giận tím chàm.
Đỏ này là đỏ trăm năm trước
Thắm lại tưng bừng triệt giống tham.
Giết chúng bay là tội chúng bay làm.
Những tội ác chúng bay gieo nay đã mọc
Thành súng ống, thành gươm dao, thành gậy gộc,
Thành cát bay đá chạy, thành mưa giông,
Thành sấm vang, thành bão táp đùng đùng!
Giết! Sẽ giết! Chết! Chúng bay sẽ chết!
Đoàn dân Việt một lòng căm đứng hết
Ôm non sông cười ngạo với nghìn thu:
“- Xác thù là xác nhồi phân ruộng,
“Máu thù là máu rửa quân nhu.
“Sao này là sao đưa hạnh phúc,
“Đỏ này là đỏ diệt quân thù!”.
23-9-1945
Ngày kháng chiến
*
“Căm hờn” – Ngọn Lửa Phẫn Nộ Và Khát Vọng Tự Do
Xuân Diệu – người thi sĩ của tình yêu và khát vọng sống, đã để lại một Căm hờn bừng cháy như ngọn lửa thiêng, hun đúc tinh thần đấu tranh của cả một dân tộc. Bài thơ không chỉ là tiếng gào thét uất hận với quân xâm lược mà còn là lời tuyên thệ sắt đá về một cuộc chiến đấu không khoan nhượng, để giành lại độc lập và phẩm giá cho đất nước Việt Nam.
Ngay từ những câu thơ đầu, một không khí dữ dội đã bùng lên:
“Đã đứng lên, những con người uất ức,
Những thế hệ nuốt oan hờn giữa ngực;”
Đó là sự vùng dậy của cả một dân tộc đã chịu đựng quá lâu, đã nén nỗi đau, nỗi nhục vào tận đáy lòng, và giờ đây, tất cả cùng bùng lên như cơn sóng dữ, như lửa ngùn ngụt thiêu rụi xiềng xích.
Xuân Diệu vẽ lại bức tranh quá khứ với những chuỗi ngày bi thương, khi đất nước chìm trong đêm dài của áp bức và bóc lột. Bọn cướp nước và bè lũ tay sai không chỉ cướp đi lãnh thổ, mà còn ngang nhiên vắt kiệt cả máu xương nhân dân:
“Lũ chúng bay, loài bạc ác vô nhân
Xây sung sướng trên nhọc nhằn kẻ khác;”
Tội ác của chúng không thể tha thứ, sự căm hờn của người Việt không thể nguôi ngoai. Nhưng hơn hết, Xuân Diệu không chỉ kêu gọi lòng hận thù, mà ông còn khắc sâu ý chí chiến đấu:
“Sao này là ngôi sao dắt nẻo,
Máu này là máu để đưa đường.”
Hình ảnh ngôi sao vàng – biểu tượng của niềm tin và hy vọng, của tự do và độc lập, hiện lên rực rỡ giữa nền trời máu lửa. Ngọn đèn cách mạng đã sáng, con đường đấu tranh đã mở, và những con người khát khao độc lập sẵn sàng lao vào trận chiến, bất chấp hi sinh.
Những địa danh như Bản Thuột, Kon Tum, Sơn La, Côn Đảo… vang lên như những bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của kẻ thù, đồng thời cũng là những cột mốc khắc ghi lòng căm hận và ý chí kiên cường của nhân dân. Đó không chỉ là nơi giam cầm thân xác mà còn là nơi nung nấu tinh thần, nơi mà những người anh hùng đã biến đau thương thành sức mạnh, biến xiềng xích thành vũ khí lật đổ bạo quyền.
Bài thơ khép lại bằng lời tuyên thệ của cả dân tộc, một lời tuyên thệ đanh thép và không thể lay chuyển:
“Sao này là sao đưa hạnh phúc,
Đỏ này là đỏ diệt quân thù!”
Đỏ của cách mạng, đỏ của lý tưởng, đỏ của những dòng máu đã đổ xuống không phải để nhuộm màu đau thương, mà là để vẽ lên một bình minh mới. Ngọn lửa Căm hờn bùng cháy trong từng câu chữ, không phải để thiêu đốt, mà để soi đường.
Đọc Căm hờn, ta không chỉ thấy một Xuân Diệu khác – một thi sĩ của thời đại, một người con của đất nước – mà còn thấy được cả một dân tộc đang tiến bước trong ánh sáng của lòng yêu nước và khát vọng tự do. Bài thơ không đơn thuần là những vần chữ, mà là tiếng gầm của một dân tộc đã đứng lên, quyết tâm giành lại vận mệnh của chính mình.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý