Căm thù
Đêm nay ta gối đầu lên súng
Trằn trọc nằm nghe máu nóng căng đầy
Nằm nghe mấy xã dân cày
Xôn xao trỗi dậy, mẹ gầy ghì con
Tiếng mưa lách rách sân trơn
Nghe từng giây phút đang dồn sức ta
Lửa âm ỉ bùng ra tê tái
Trong mắt người con gái đắng cay
Đời tươi như bát nước đầy
Vỡ tan một tiếng dưới giầy xâm lăng!
Cắn chặt hàm răng
Bậm môi, nghiến lợi, già căng mặt già
Vài mươi ông lão giữ nhà
Thùng lùng, dao bảy, đinh ba gối đầu
Đêm nay thức giấc thương đau,
Vụt nghe “khốc dạ” mấy câu rợn người
Cái gì đấy, xóm làng ơi!
Đội quân biệt động xa xôi mới về!
…Từ ruộng đất, đang kín bưng
Lầm lỳ chết chóc, bỗng bừng sục sôi
Cái gì đấy, xóm làng ơi!
Cái lòng giết giặc đã tôi thép già!
Từ trong rên xiết, toài ra.
Có những đàn bà sâu sắc niềm đau
Có những ông cụ bạc đầu
Cặp mắt đỏ ngầu nhục cũ vong nô
Tuổi thơ mấy trẻ u ơ
Gốc cây chuối cháy lại nhô lên mầm
Đó là nhân dân!
Nước da quánh đậm mấy lần đất quê
Bản thân quằn quại, ê chề,
Bùn gai dấu mặt, chông tre rào làng
Mọc lên tua tủa hiên ngang
Mũi nhọn vững vàng hàng xã dân quân
Súng ơi! nặng cân giận dữ
Xung trận diệt thù mấy cữ nóng ran
Cùng ta vượt hết cơ hàn
Cùng ta đau cái đau toàn dân đau…
1946
*
Căm Thù – Ngọn Lửa Không Bao Giờ Tắt
“Đêm nay ta gối đầu lên súng
Trằn trọc nằm nghe máu nóng căng đầy”
Những câu thơ đầu tiên của Căm Thù vang lên như một hồi trống dồn dập giữa đêm tối, như tiếng thét vang vọng từ trái tim những con người đã nếm đủ đau thương và căm hận. Thâm Tâm không chỉ viết một bài thơ, ông đã vẽ nên bức tranh đầy khốc liệt của một thời đại, nơi mà từng giọt mồ hôi, từng giọt máu, từng hơi thở của nhân dân đều mang nặng nỗi uất hận và ý chí quật cường trước quân thù.
Nhân dân – Những con người không bao giờ khuất phục
Bài thơ không khắc họa những vị tướng quân lẫm liệt hay những đoàn quân rầm rập tiến ra trận mạc. Mà ở đây, Thâm Tâm nói về những con người bình dị nhất, những ông lão tay nắm chắc đinh ba, những người mẹ ghì con trong cơn hoảng loạn, những đứa trẻ tuổi thơ bị cướp mất. Đó là những con người của làng mạc, của bùn đất, của những vết chai sần và đôi mắt đỏ ngầu nỗi căm hờn.
“Vài mươi ông lão giữ nhà
Thùng lùng, dao bảy, đinh ba gối đầu”
Những con người ấy – những người tưởng như yếu đuối, lại chính là linh hồn của cuộc chiến. Chính họ, từ ruộng đồng lam lũ, đã trỗi dậy, biến đau thương thành sức mạnh, biến nước mắt thành lửa hận thù.
Căm thù – Ngọn lửa không thể dập tắt
Lòng căm thù trong bài thơ không chỉ là một cơn giận nhất thời, mà là một ngọn lửa âm ỉ cháy qua từng năm tháng bị áp bức. Nó bùng lên trong những ánh mắt:
“Có những đàn bà sâu sắc niềm đau
Có những ông cụ bạc đầu
Cặp mắt đỏ ngầu nhục cũ vong nô”
Căm thù không chỉ vì một vết thương, một mái nhà cháy rụi, mà còn vì cả một lịch sử bị giày xéo, một dân tộc từng bị chà đạp. Nó không phải là thứ cảm xúc bộc phát mà là một lời thề, một quyết tâm không gì lay chuyển.
Súng – Biểu tượng của ý chí kiên cường
Nếu Tống biệt hành của Thâm Tâm là một bản hùng ca bi tráng của những kẻ ly khách lên đường với đôi mắt đỏ rực lửa, thì Căm Thù lại là lời thề sắt đá của những con người ở lại, những người ôm súng mà lòng căng đầy quyết tâm.
“Súng ơi! nặng cân giận dữ
Xung trận diệt thù mấy cữ nóng ran”
Súng trong bài thơ không chỉ là vũ khí, mà còn là biểu tượng của ý chí, của sự phẫn nộ, của ngọn lửa công lý không thể dập tắt. Đó là thứ vũ khí mà nhân dân, từ những người nông dân chân lấm tay bùn đến những người mẹ già tảo tần, đã nâng lên với tất cả lòng căm hờn và quyết tâm giành lại tự do.
Lời kết
Căm Thù không đơn thuần là một bài thơ yêu nước, mà còn là một tiếng gào thét từ sâu thẳm tâm can của những con người đã chịu quá nhiều đau thương. Ở đó, có nỗi đau, có sự mất mát, nhưng quan trọng hơn, có một sức mạnh vô song – sức mạnh của nhân dân, của những con người bị dồn đến đường cùng nhưng không bao giờ chịu khuất phục.
Thâm Tâm đã để lại một bài thơ không chỉ là lời hiệu triệu chống giặc, mà còn là một bài ca về lòng kiên trung, về sự trỗi dậy của những con người tưởng như yếu đuối nhưng lại chính là những chiến binh kiên cường nhất. Căm Thù là ngọn lửa, là tiếng súng, là máu, là nước mắt – nhưng trên hết, đó là lời thề sắt đá của cả một dân tộc: Không bao giờ lùi bước trước kẻ thù!
*
Thâm Tâm – Nhà Thơ Của Hào Khí Và Ly Biệt
Thâm Tâm (1917–1950), tên thật là Nguyễn Tuấn Trình, là một nhà thơ và nhà viết kịch tiêu biểu của Việt Nam. Ông được biết đến nhiều nhất qua bài thơ Tống biệt hành, tác phẩm mang phong cách hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại, thể hiện hào khí mạnh mẽ và nỗi bi tráng trong từng câu chữ.
Sinh ra tại Hải Dương trong một gia đình nhà giáo, Thâm Tâm từ nhỏ đã sớm bộc lộ tài năng nghệ thuật. Ông từng kiếm sống bằng nghề vẽ tranh trước khi bước vào con đường văn chương. Những năm 1940, ông hoạt động sôi nổi trên các tờ báo như Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, và đặc biệt thành công với thể loại thơ. Thơ ông đa dạng về cảm xúc, lúc buồn sâu lắng, lúc trầm hùng, bi ai, lúc lại rộn ràng niềm vui.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Thâm Tâm tích cực tham gia phong trào văn hóa Cứu quốc, làm biên tập viên báo Tiên Phong rồi nhập ngũ, trở thành thư ký tòa soạn báo Vệ quốc quân (sau này là Quân đội Nhân dân). Ông qua đời đột ngột vào năm 1950 trong một chuyến công tác tại chiến dịch Biên giới, để lại nhiều tiếc thương.
Sinh thời, Thâm Tâm chưa in tập thơ nào, nhưng những sáng tác của ông được tập hợp và xuất bản vào năm 1988 trong tuyển tập Thơ Thâm Tâm. Ngoài Tống biệt hành, ông còn nổi tiếng với các bài thơ Gửi T.T.Kh., Màu máu Tygôn, Dang dở, gắn liền với câu chuyện tình bí ẩn về thi sĩ T.T.Kh.
Bên cạnh thơ, Thâm Tâm còn sáng tác nhiều kịch bản như Sương tháng Tám, Lá cờ máu, Người thợ… Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, khẳng định những đóng góp quan trọng của ông đối với nền văn học Việt Nam.
Với phong cách thơ vừa lãng mạn vừa bi tráng, giàu cảm xúc nhưng cũng đầy hào khí, Thâm Tâm mãi mãi là một trong những gương mặt tiêu biểu của thi ca Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Viên Ngọc Quý.