Căn gác nhỏ
Ngõ hẻm bùn rêu đầu gác nhỏ
Văn nhân tài tử mươi lăm người
Ngọn đèn suốt canh thâu lấp ló
Văn nhân lên ở cao gần trời
Trên không vui trong đời mộng tưởng
Viết nhiều, áo họ lòi khuỷu tay
Bờm tóc như bòng bong ngất ngưởng
Khi nào họ gật đầu khen: hay
Thường khách tài hoa mê nàng Đẹp
Thay cơm bằng hai xu phở bò
Có khi óc đầy nhưng bụng lép
Thu chăn đành ngủ dài cho no
Rồi họ mê đời yêu họ quá
Tri âm là muôn ngàn tim thơ
Rồi mơ đến Bồng Lai cảnh lạ
Song vào Đông Hưng Viên đang chờ
Bừng mắt thì thầm mưa tí tách
Gió thổi làn mây bay ơ hờ
Sờ bụng không cơm, chìa khuỷu rách
Nhìn trời họ nhẩm mấy vần thơ
*
Căn Gác Nhỏ – Những Giấc Mơ Treo Trên Đầu Ngọn Bút
Trong thế giới thơ Nguyễn Nhược Pháp, những hình ảnh nhẹ nhàng nhưng đầy ám ảnh về cuộc đời, tình yêu và mộng tưởng luôn hiện lên một cách tự nhiên, không phô trương nhưng lắng sâu trong lòng người đọc. Căn gác nhỏ là một bài thơ như thế nó mở ra một thế giới của những văn nhân tài tử, những con người sống bằng chữ nghĩa, mộng mơ với văn chương nhưng cũng vật lộn với cơm áo, để rồi tất cả đọng lại trong những vần thơ được sáng tác giữa trời cao và hiện thực khắc nghiệt.
Căn gác nhỏ – Nơi chắp cánh những giấc mộng văn nhân
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh một căn gác nhỏ, nằm trong một ngõ hẻm đầy bùn rêu, nơi mà những con người tài hoa nhưng bạc mệnh tụ hội.
“Ngõ hẻm bùn rêu đầu gác nhỏ
Văn nhân tài tử mươi lăm người
Ngọn đèn suốt canh thâu lấp ló
Văn nhân lên ở cao gần trời”
Không gian ấy dường như tách biệt khỏi thực tại, tựa như một ốc đảo giữa dòng đời bon chen. Căn gác tuy nhỏ, nhưng lại là nơi thăng hoa của tâm hồn, nơi những văn nhân “ở cao gần trời”, nơi họ sống với lý tưởng, với chữ nghĩa, với giấc mộng mà họ tin là vĩnh cửu.
Họ viết nhiều đến nỗi áo đã “lòi khuỷu tay”, tóc bù xù như “bòng bong ngất ngưởng”, nhưng điều đó có hề gì khi họ có thể đắm chìm trong nghệ thuật, trong những câu thơ mà họ gật gù khen “hay”.
Cái đói và sự hào hoa trong nghèo khó
Nhưng hiện thực không vì thế mà buông tha họ. Những con người sống bằng chữ nghĩa thường lại là những kẻ nghèo nhất, mà nghèo thì vẫn phải tìm cách sống, dù chỉ là với “hai xu phở bò”:
“Thường khách tài hoa mê nàng Đẹp
Thay cơm bằng hai xu phở bò
Có khi óc đầy nhưng bụng lép
Thu chăn đành ngủ dài cho no”
Ở đây, Nguyễn Nhược Pháp phác họa một hình ảnh đầy trớ trêu: những con người có một thế giới nội tâm phong phú, đầu óc tràn ngập ý tưởng, nhưng thể xác lại tiều tụy, đói khát. Cái đói không chỉ là sự thiếu thốn về vật chất, mà còn là cái đói của những người không được xã hội công nhận, không được đãi ngộ xứng đáng với tài năng của mình.
Nhưng họ vẫn kiêu hãnh, vẫn lãng mạn, vẫn yêu đời, vẫn mơ về những chân trời xa xăm mà văn chương có thể mang lại.
Mộng tưởng và hiện thực – Sự đối lập nghiệt ngã
Những văn nhân ấy sống với ảo tưởng của mình, yêu cái đẹp, mơ về “Bồng Lai cảnh lạ” hay một bữa ăn no tại “Đông Hưng Viên”. Họ tin rằng, rồi một ngày nào đó, thế giới sẽ nhận ra giá trị của họ, rằng những vần thơ, những áng văn họ viết ra sẽ được người đời tán thưởng.
Nhưng hiện thực vẫn lạnh lùng:
“Bừng mắt thì thầm mưa tí tách
Gió thổi làn mây bay ơ hờ
Sờ bụng không cơm, chìa khuỷu rách
Nhìn trời họ nhẩm mấy vần thơ”
Cái kết của bài thơ không phải là sự bi lụy, mà là một nỗi buồn thầm lặng, một sự chấp nhận của những kẻ mộng mơ trước số phận của mình. Đói vẫn đói, rách vẫn rách, nhưng họ vẫn làm thơ, vẫn giữ ngọn lửa sáng tạo trong tim.
Thông điệp của bài thơ – Sự đối lập giữa lý tưởng và hiện thực
Qua Căn gác nhỏ, Nguyễn Nhược Pháp không chỉ kể về cuộc sống của những văn nhân tài tử, mà còn khắc họa một thực trạng muôn thuở của những người theo đuổi nghệ thuật: sự đối lập giữa lý tưởng và hiện thực.
Họ sống vì nghệ thuật, nhưng nghệ thuật không nuôi sống họ. Họ tôn thờ cái đẹp, nhưng cái đẹp lại không thể lấp đầy dạ dày. Họ tin vào giá trị của những gì mình viết ra, nhưng hiện thực vẫn phũ phàng với những giấc mộng ấy.
Dẫu vậy, bài thơ không mang màu sắc bi quan. Trái lại, nó tôn vinh những tâm hồn nghệ sĩ những con người dù khốn khó vẫn giữ vững tình yêu với nghệ thuật, dù đói vẫn làm thơ, dù rách vẫn lặng lẽ nhìn trời cao và nuôi dưỡng giấc mơ của mình.
Và có lẽ, chính những con người như vậy, dù bị cuộc đời chối bỏ, lại là những người để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử văn chương.
*
Nguyễn Nhược Pháp – Nhà thơ trữ tình tài hoa
Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) là một nhà thơ trữ tình của Việt Nam, được biết đến với phong cách thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng vẫn thấm đượm chất trữ tình và tinh thần dân tộc. Ông là con trai của học giả, nhà báo, dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh – người có nhiều đóng góp quan trọng trong việc truyền bá chữ Quốc ngữ và văn hóa phương Tây vào Việt Nam.
Ngay từ nhỏ, Nguyễn Nhược Pháp đã bộc lộ năng khiếu văn chương. Ông theo học tại Trường Trung học Albert Sarraut, sau đó tiếp tục học tại Trường Cao đẳng Luật và Pháp chính. Bên cạnh việc học, ông còn tham gia viết báo và sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch bản.
Năm 1935, tập thơ “Ngày xưa” của ông ra đời, mang đến một làn gió mới cho thi đàn Việt Nam. Các bài thơ như Chùa Hương, Tay Ngà, Sơn Tinh Thủy Tinh đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả nhờ lối thơ giản dị, trong sáng, kết hợp giữa chất dân gian và hơi thở hiện đại. Ngoài thơ, ông còn viết kịch, tiêu biểu là vở Người học vẽ (1936).
Cuộc đời Nguyễn Nhược Pháp ngắn ngủi, ông qua đời vì bệnh lao hạch khi mới 24 tuổi. Dù vậy, thơ ông vẫn để lại dấu ấn đặc biệt trong nền văn học Việt Nam, được đánh giá là mang nét duyên dáng riêng biệt, hiền lành và thanh tao.
*