Can thuyền vua
Lời Khánh Dư
Ta van ngươi lui bước xuống khoang rồng,
Tâu thánh thượng cho ta vào bệ kiến.
Từ đã ba hôm, ta ngóng trông đoàn thuyền chiến,
Phò hành cung tới đậu bến sông này.
Từ đã ba hôm (ta) mong thấy bóng cờ bay,
Và mui buồm từ xa, phun sóng bạc…
Vì ai đem chiếu son, gài lưỡi mác,
Truyền, hôm nay, sớm tối, các vương hầu.
Phải đem quân về duyệt bến Đồng Dâu,
Ấn kỳ lân vẫn hay không còn nữa.
Ta cũng vứt sườn non con dao rựa,
Trói mình chờ long giá mé sông hoang.
Giữa khi, từ Kỳ Sơn tới cửa biển Đại Hoàng,
Từ sông Lư tới non Hoành mây đua lướt.
Dân phẫn uất sâu thù quân cướp nước,
Đương nghiến răng mài kiếm đợi người Mông.
Ta là đinh trai tráng đất Lạc Hồng,
Lòng đâu đứng nhìn binh vua tan vỡ.
Nhìn móng câu phũ phàng bầy mọi rợ,
Đạp bằng thành tráng lệ, tháp nguy nga.
Ta đã lang thang thăm suốt dải Hồng Hà,
Từ khi bị biếm quan đi đẵn củi.
Ta đã ngắm những làng, nương, rừng, núi,
Nơi năm xưa, kỵ mã Ngột Lương qua.
Ta đã nghe bên lửa, những ông già,
Nghẹn nước mắt hờn ôn câu chuyện cũ.
Ta đã thấy tim rên niềm thống khổ,
Và thấy luồng căm tức chuyển thần kinh…
Lòng kiêu căng bùng nổi sóng bất bình,
Mà trời ơi! Đâu phải.
Trường luyện vũ nơi tưng bừng nắng rãi,
Hia Khánh Dư chưa đặt đế bao giờ!
Đã từng phen ta quăng ngựa lướt vòng đua.
Cùng Tĩnh Quốc, cùng Chiêu Văn, cùng Hưng Đạo!
Đã từng phen ta giương cung mã não,
Ta phi tên run cắm đá bia mài.
Và, từ hôm các tướng tá thi tài,
Ai chưa biết đường đao ngươi Nhân Huệ?
Nên sáng nay, liều ngăn thuyền thánh đế,
Ta van vua cho góp mặt hội vương hầu.
Ưng cho ta dưới trướng cắp gươm hầu,
Khi, quanh án, các hoàng thân bàn việc nước.
Ưng cho ta, khi tù và hô quân vang trời rúc,
Say bơi trong máu vũng gặt đầu lâu.
Ưng cho ta, khỏi nhục nhã kiếp mày râu,
Ưng cho ta, sau dăm lần vui thú ấy.
Trường chiến thắng cát kiêu tung lộng lẫy,
Trăm thương đâm suốt ngực một chiều kia.
*
Bài thơ này được đăng trên báo Độc lập số 163, ngày 4-6-1946, trong bài viết Việt kiều làm thơ (cùng 2 bài thơ và 2 cặp câu đối khác) với lời dẫn như sau:
Đây là mấy bài thơ của Việt kiều làm tại Pháp đã đăng trong báo Bình dân số 3 ngày 1-4-1945.
Tôn thất nhà Trần là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư mắc tội bị cách hết chức tước. Khi nhà Nguyên cử binh mã sang chiếm nước ta, Khánh Dư tuy không được dự việc quân, cũng tới soái doanh nài xin giúp việc đánh đuổi cừu địch. Sau Khánh Dư thắng trận thuỷ chiến Vân Đồn, nhờ có Hưng Đạo vương thắng trận Bạch Đằng, phá tan quân nghịch. Ngày nay, lòng chúng ta cũng rạo rực tình yêu nước và chỉ muốn hy sinh như người xưa. Tiếc rằng chúng ta không có cách nào chiến đấu dưới bóng cờ của Chính phủ Hồ Chí Minh, để bảo thủ nền tự trị của nước nhà.
Bài thơ dưới đây gợi lại chuyện Khánh Dư tới soái doanh, miền Phả Lại Bắc Ninh nói cùng vệ binh xin nhập ngũ.
*
Khí Phách Trần Khánh Dư và Tinh Thần Bất Khuất Trong “Can Thuyền Vua”
Có những vần thơ không chỉ là ngôn từ, mà còn là những tiếng vọng của lịch sử, những ngọn lửa cháy mãi trong lòng người đọc. Can thuyền vua của Phạm Huy Thông là một bài thơ như thế. Từng câu, từng chữ như một thanh kiếm chém vào không gian thời đại, tái hiện hình ảnh Trần Khánh Dư – một bậc tướng tài ba nhưng bị cách chức, vẫn một lòng vì nước, quỳ dưới thuyền vua để xin ra trận.
Bài thơ mở đầu bằng sự khẩn thiết, một lời cầu xin nhưng không hề nhu nhược:
“Ta van ngươi lui bước xuống khoang rồng,
Tâu thánh thượng cho ta vào bệ kiến.”
Khánh Dư không xin tha tội, không mong vinh hoa, mà chỉ khẩn cầu được cầm gươm ra trận. Lòng trung nghĩa và chí khí của một bậc anh hùng hiện lên mạnh mẽ. Ông không thể khoanh tay đứng nhìn khi giặc đang tràn vào đất nước, khi dân chúng đang đau thương vì mất nước.
“Từ đã ba hôm, ta ngóng trông đoàn thuyền chiến,
Phò hành cung tới đậu bến sông này.”
Câu thơ không chỉ mang tính miêu tả mà còn là nỗi day dứt, niềm mong mỏi cháy bỏng của một người bị thất sủng nhưng lòng vẫn hướng về vận nước. Trong thời khắc đất nước lâm nguy, kẻ sĩ thực thụ không màng đến địa vị, chỉ mong được cống hiến cho non sông.
Lời Kêu Gọi Của Một Tấm Lòng Son
Suốt bài thơ, khí thế dồn dập, lời thơ như những nhát búa gõ vào tâm can người đọc. Nhịp điệu bài thơ nhanh, mạnh, như chính tiếng bước chân vội vã của Khánh Dư đến dưới thuyền vua. Hình ảnh quê hương tan tác, giặc Nguyên Mông hoành hành, tiếng căm hờn vang vọng:
“Dân phẫn uất sâu thù quân cướp nước,
Đương nghiến răng mài kiếm đợi người Mông.”
Không ai có thể thờ ơ khi đất nước bị giày xéo. Như những bô lão từng kể lại nỗi nhục của quá khứ, Khánh Dư không thể chịu nổi cảnh một lần nữa thấy quân thù tràn vào bờ cõi. Đọc những câu thơ này, ta không chỉ thấy lòng yêu nước của Trần Khánh Dư, mà còn thấy lòng yêu nước của chính tác giả – Phạm Huy Thông. Giữa bối cảnh đất nước năm 1945-1946, khi thực dân Pháp đang quay lại xâm chiếm Việt Nam, bài thơ này không chỉ là tiếng nói của quá khứ, mà còn là tiếng nói của hiện tại.
Khí Phách Của Một Bậc Hào Kiệt
Có lẽ điều khiến Can thuyền vua trở nên đặc biệt là khí phách của Trần Khánh Dư. Không chịu an phận, không chấp nhận sự vứt bỏ của triều đình, ông thẳng thắn khẳng định bản lĩnh của mình:
“Đã từng phen ta quăng ngựa lướt vòng đua,
Cùng Tĩnh Quốc, cùng Chiêu Văn, cùng Hưng Đạo!”
Ông nhắc lại những chiến công trong quá khứ, không phải để khoe khoang, mà để khẳng định mình chưa từng là kẻ vô dụng. Người anh hùng không bao giờ cam chịu cảnh bị quên lãng, không bao giờ chịu đứng ngoài cuộc chiến. Ông chỉ có một mong ước duy nhất:
“Ưng cho ta dưới trướng cắp gươm hầu,
Khi, quanh án, các hoàng thân bàn việc nước.”
Hình ảnh một người tướng già quỳ dưới thuyền vua, chỉ cầu xin được góp sức vì nước, không đòi danh lợi, không mong phục chức, thực sự khiến người đọc xúc động. Lời thơ không chỉ mang khí phách mà còn mang nỗi nghẹn ngào của một người từng đứng trên đỉnh cao nay bị gạt sang lề.
Từ Lịch Sử Đến Hiện Tại – Một Lời Thức Tỉnh
Dù viết về Trần Khánh Dư, nhưng thông điệp của bài thơ không chỉ dành cho thời Trần. Giữa những năm tháng đất nước đang đứng trước họa xâm lăng, bài thơ này như một hồi trống thúc giục những người con đất Việt đứng lên bảo vệ quê hương.
Phạm Huy Thông không đơn thuần kể lại một câu chuyện lịch sử, mà ông gửi gắm vào đó lòng yêu nước và tinh thần bất khuất. Ông muốn thức tỉnh thế hệ đương thời: Nếu không thể trực tiếp cầm vũ khí ra trận, thì cũng hãy giữ trong tim lòng yêu nước như Trần Khánh Dư, sẵn sàng chiến đấu vì non sông bất cứ khi nào cần.
Lời Kết
Can thuyền vua không chỉ là một bài thơ lịch sử, mà còn là một bản anh hùng ca về lòng trung nghĩa, về tinh thần không khuất phục. Trong từng câu chữ, ta thấy hình ảnh của những con người không chấp nhận đầu hàng số phận, luôn cháy bỏng tinh thần cống hiến cho đất nước.
Hơn bảy thế kỷ đã trôi qua, nhưng tinh thần Trần Khánh Dư vẫn còn vang vọng, và bài thơ của Phạm Huy Thông vẫn tiếp tục truyền lửa cho những ai yêu nước, yêu chính nghĩa.
*
Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam
Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.
Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.
Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.
Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.
Viên Ngọc Quý.