Cảnh đoạn trường
Em chỉ nói rằng: “Đời em buồn”,
Rồi em nức nở lệ sầu tuôn.
(Tâm sự một cô gái nhảy)
Anh nhớ năm xưa trong yến diên
Họp mặt ba kỳ, trăm sinh viên.
Rót chén rượu nồng cùng vui chơi
Trước khi chia tay người mỗi nơi.
Điểm vui yến tiệc bọn ca nhi
Ba bảy mai kia đương vừa thì.
Hoa khôi hôm ấy là em đó,
Liếc mắt đưa tình đá cũng mê.
Hôm nay nức nở sầu ảm đạm
Kể lại đời em nghe thê thảm:
Không quê, không quán, không mẹ cha,
Như cánh bèo trôi không chỗ bám.
Em phải dấn thân vào hồng lâu
Luỵ từ nô bộc đến công hầu.
Rồi lại giạt trôi trường khiêu vũ
Hết lòng chiều khách lại chiều chủ.
Liễu bồ sức vóc được bao nhiêu
Dạn gió dày sương thực đến điều.
May thay em gặp khách phiêu lưu
Cảm thấy tình em thảm đạm nhiều,
Nhặt cánh hoa tàn rơi dưới đất
Chung tình trong một mối thương yêu.
Khách nhớ quê xa trở gót về.
Đêm trường nhớ khách dạ đê mê,
Cảm thấy đời em buồn lạnh, tẻ,
Ngoài đường sương lạnh bước ra đi.
Ra đi gió lạnh tạt ngang mình,
Nghĩ đến đời em, em khiếp kinh,
Kinh khiếp vì đời như vực thẳm
Xui em truỵ lạc hỡi trời xanh!
Nếu cũng như ai có mẹ cha,
Buồng xuân rủ gấm với phong là,
Thời em ngày tháng cùng vui sương
Hớn hở nô đùa với cỏ hoa.
Rồi ngày đào lý nở nhành bông,
Em cũng như ai được tấm chồng
Quyền cả chức cao trong xã hội
Êm đềm chia ngọt sẻ bùi chung.
Than ôi! Em có được như người:
Hoa tạ lia cành trước gió rơi
Lăn lóc cát lầm hoen cánh ngọc
Đem thân làm thú vạn muôn người.
*
Lững thững em đi bên vệ đường,
Âm thầm buồn bã; gió cùng sương
Ướt cả áo xiêm, em chẳng biết…
Lòng em mang nặng dấu đau thương.
Chán nản quay đầu em lại nhìn
Cuộc đời quá khứ tựa đêm đen.
Tương lai bước tới chân chồn mỏi,
Một bước đau lòng, một bước thêm!
Lầu các, kìa ai vợ với chồng
Êm đềm trong giấc phụng loan chung.
Riêng em lững thững bên hè vắng
Khóc mãi, mắt em úa đỏ hồng.
Ôi thôi! Em quyết chỉ quyên sinh
Quyết bỏ trần gian, bỏ ái tình.
Trong một gian buồng thuê buổi tối
Đau lòng, em uống thuốc quyên sinh.
Khinh thay! Những gái tiếng con nhà
Vì tính buông tuồng phải truỵ sa
Vào chỗ bùn lầy nghề kỹ nữ;
Nhưng em… nào phải muốn giăng hoa.
Giời đất này! Hãy chứng minh:
Vì chưng xã hội quá bất bình.
Thân em thật đã bùn than lấm
Lòng tuyết, em còn giữ tiết trinh.
Mang tấm lòng đau xuống suối vàng
Ai người nhân thế chạnh lòng thương?
Ai người biết được em đau khổ?
Đêm lạnh… thân ôi! Cảnh đoạn trường.
Cõi đời dần tối, giấc âm thầm
Hình ảnh ngàn xưa cũng xoá dần,
Sau rốt cảm nghe như mẹ ẵm
Và lời ân ái khách xa xăm.
Sáng sớm người ta vào buồng ngủ,
Thất đảm kinh hồn người la rú
Vội vàng đưa em đến nhà thương,
Để em lạnh lẽo nằm trên giường.
Hồi lâu thuốc thang em tỉnh dậy
Mở mắt, lạ lùng nhìn thế gian;
Bất giác hai hàng lệ em tràn.
Chung quanh em, những người săn sóc
Gạn ghẽ dò la hết cỗi gốc
Em chỉ nói rằng: “Đời em buồn”,
Rồi em nức nở lệ sầu tuôn.
*
– Anh cũng như em, chán cõi đời,
Nhưng mà quả quyết sống mà chơi.
Đời càng bạc bẽo cùng mình lắm
Mình cũng yên vui, cũng nói cười!
Cười đời bạc bẽo khinh thế gian
Cho biết rằng ta chẳng phải hèn
Ta sống vì chúng ta quả quyết
Đạp bằng muôn vạn nỗi gian nan.
Đứng dậy, em ơi! Sống cõi đời,
Đời dầu khổ nhục đến mười mươi,
Em nên điểm phấn tô son lại,
Ngạo với nhân gian một nụ cười.
Ngày mai ở mãi chốn chân trời
Trong cảnh gia đình ấm áp vui
Một phút trầm ngâm anh sẽ khấn
Cho em trở lại được tươi cười.
*
Cảnh Đoạn Trường – Bi Kịch Của Một Kiếp Hồng Nhan
Trong nền thơ ca Việt Nam, Thái Can là một trong những nhà thơ mang đến những bài thơ thấm đẫm nỗi buồn và những suy tư về kiếp người. “Cảnh đoạn trường” là một bài thơ đầy cảm xúc, vẽ lên bức tranh bi thương về một người con gái chịu nhiều oan nghiệt của số phận. Từ những vần thơ, ta không chỉ thấy sự éo le của một kiếp hồng nhan mà còn cảm nhận được lời trách móc xã hội bất công và khát vọng vươn lên từ đau khổ.
Từ ánh hào quang đến vực thẳm cuộc đời
“Anh nhớ năm xưa trong yến diên
Họp mặt ba kỳ, trăm sinh viên…”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh của quá khứ huy hoàng. Nàng từng là hoa khôi, từng là ánh sáng rực rỡ trong những buổi yến tiệc, nơi mà “liếc mắt đưa tình đá cũng mê”. Nhưng vinh hoa ấy chỉ là phù du. Khi dòng đời cuốn đi, nàng trôi dạt, mất đi tất cả, từ gia đình đến quê hương, để rồi phải bước chân vào chốn phong trần.
Không ai muốn tự mình đẩy cuộc đời vào nơi ô nhục. Nhưng xã hội bất công, không cho nàng lựa chọn. Câu thơ “Không quê, không quán, không mẹ cha” như tiếng than xé lòng của một kiếp người không nơi nương tựa.
Nỗi đau của kiếp hồng nhan
“Ra đi gió lạnh tạt ngang mình,
Nghĩ đến đời em, em khiếp kinh”
Sự lụi tàn của nhan sắc cũng là sự tàn lụi của hi vọng. Dẫu có một tình yêu từng thắp sáng cuộc đời nàng, nhưng khi người yêu rời đi, nàng lại trở về với đêm tối của cuộc đời. Không ai hiểu nàng, không ai dang tay cứu vớt. Trong cơn tuyệt vọng cùng cực, nàng chọn cách kết liễu đời mình.
Hình ảnh nàng “lững thững đi bên vệ đường”, “mang nặng dấu đau thương” là hình ảnh bi thương nhất của một con người không còn gì để mất. Cái chết trở thành sự giải thoát, nhưng liệu có ai hiểu hết nỗi lòng của nàng?
Tiếng thét giữa cuộc đời cay nghiệt
“Giời đất này! Hãy chứng minh:
Vì chưng xã hội quá bất bình.”
Lời thơ không chỉ là tiếng kêu của một cá nhân mà còn là lời oán trách xã hội. Xã hội đã đẩy nàng đến bờ vực thẳm, khiến nàng không còn đường lui. Đáng thương thay, nàng không phải một kẻ sa đoạ buông thả, mà chỉ là nạn nhân của cuộc đời ngang trái.
Đọc đến đây, ta không khỏi nghĩ về bao nhiêu số phận phụ nữ khác trong xã hội, những người cũng bị vùi dập bởi định kiến, bởi bất công, bởi những nghịch cảnh mà họ không thể chống lại.
Niềm tin vào ngày mai – Lời động viên cuối cùng
“Đứng dậy, em ơi! Sống cõi đời,
Đời dầu khổ nhục đến mười mươi,
Em nên điểm phấn tô son lại,
Ngạo với nhân gian một nụ cười.”
Bài thơ kết thúc không phải bằng bi kịch, mà bằng một lời động viên mạnh mẽ. Dù cuộc đời có cay nghiệt đến đâu, con người vẫn phải đứng lên, vẫn phải kiên cường đối diện với số phận.
Lời kêu gọi ấy không chỉ dành cho nhân vật trong thơ mà còn là dành cho tất cả những ai đang đau khổ giữa cuộc đời. Đừng để nỗi buồn vùi lấp, đừng để nghịch cảnh đánh gục – hãy mạnh mẽ sống tiếp, vì biết đâu ngày mai sẽ là một ngày khác.
Lời kết
“Cảnh đoạn trường” là một trong những bài thơ tiêu biểu của Thái Can, vừa thể hiện nỗi đau của một cá nhân, vừa là lời tố cáo xã hội bất công đã chà đạp lên những số phận yếu đuối. Nhưng dù mang màu sắc bi thương, bài thơ vẫn mở ra một tia hy vọng – con người dù bị vùi dập đến đâu cũng có thể tìm lại ánh sáng nếu họ đủ mạnh mẽ để đứng lên.
Đọc bài thơ này, ta không chỉ xúc động trước nỗi đau của nhân vật mà còn tự nhủ với lòng mình: hãy sống kiên cường, dù đời có bạc bẽo đến đâu.
*
Thái Can – Bác sĩ và Nhà thơ Tiền Chiến
Thái Can (1910 – 1998) là một bác sĩ và nhà thơ nổi bật trong phong trào Thơ Mới Việt Nam. Ông sinh ngày 22 tháng 10 năm 1910 tại Hà Tĩnh, từng theo học tại nhiều ngôi trường danh tiếng trước khi tốt nghiệp bác sĩ y khoa năm 1940.
Ngay từ khi còn đi học, Thái Can đã bắt đầu sáng tác thơ và đăng trên các tờ báo lớn đương thời như Phong Hoá, Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội báo… Tập thơ đầu tay Những nét đan thanh (1934) đã khẳng định phong cách trữ tình, sâu lắng của ông, sau này được tái bản với tên Thơ Thái Can (1995). Năm 1941, ông được giới thiệu trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân.
Thơ Thái Can chủ yếu xoay quanh tình yêu và số phận con người, với âm điệu nhẹ nhàng, man mác buồn. Dù bị nhận xét là có phần ước lệ, nhưng những vần thơ của ông vẫn để lại dấu ấn với nét nhạc điệu riêng biệt và cảm xúc chân thành. Sau năm 1954, ông di cư vào Nam rồi sang Hoa Kỳ, tiếp tục hành nghề y cho đến khi qua đời năm 1998.
Dù không thuộc hàng những tên tuổi hàng đầu của Thơ Mới, Thái Can vẫn để lại dấu ấn đặc trưng với những vần thơ đượm chất hoài niệm và triết lý nhân sinh.
Viên Ngọc Quý.