Cảnh học đường ân giáo dục
Giữa chốn thành Phương có cảnh vườn,
Cảnh vườn phong cảnh thực u nhàn.
Cỏ cây hoa lá chiều thanh tú,
Trong ngoài bốn mặt đều hoàn toàn.
Vườn trồng đủ mọi thứ hoa thảo,
Hồng, tía, xanh, vàng khắp một vùng.
Thứ đẹp ở hoa, thứ ở lá,
Thứ về xuân hạ, thứ thu đông.
Dòng ngang luống dọc từng từng lớp,
Sắc đẹp hương thơm đủ mọi chiều,
Thứ thì rực rỡ thứ đầm thấm,
Thứ trông hùng dũng thứ yêu kiều.
Vườn có trồng sen, có trồng trúc,
Có cả phù dung lẫn mẫu đơn.
Vườn trồng tùng bá, trồng đào lý,
Lại trồng thược dược, trồng mai lạn.
Vườn hoa cảnh tượng được sinh sắc,
Tưới nước vun phân nhờ có người,
Biết bao sớm trưa công khó nhọc,
Đã nhiều săn sóc nhiều tài bồi.
Tinh thần cốt cách nét tươi tỉnh,
Thu cúc xuân lan vẻ mặn mà,
Nầy khóm hoa hồng, cành trúc biếc,
Dịu dàng xinh xắn biết bao là!
Cây cảnh vườn nay đã cao mát,
Tán rợp cành dài hoa quả tươi.
Gió bấc, mưa thu, nắng hạ dãi,
Sớm chiều mây hợp, tối trăng soi.
Cảnh vườn xuân kia cảnh trường học,
Hoa cỏ này là bọn trẻ thơ;
Tưới nước vun phân: người giáo hoá,
Đầm thấm dồi dào ân móc mưa.
Mùa xuân nở hoa, thu kết quả,
Vườn xuân “trí đức” ngày thêm xuân;
Trông ra cảnh sắc trái bông ấy,
Cám ơn tô điểm nghìn muôn lần.
Hái hoa đưa tặng người vun tưới,
Hương hoa sực nức vị “văn chương”;
Ba xuân tấc cổ tình sư đệ,
Một hội trăm năm cảnh học đường.
*
Cảnh Học Đường – Nơi Ươm Mầm Trí Đức
Trong thơ văn Đông Hồ, thiên nhiên không chỉ là cảnh sắc mà còn là nơi ẩn chứa triết lý nhân sinh. Bài thơ Cảnh học đường ân giáo dục là một ví dụ điển hình, nơi hình ảnh khu vườn tươi tốt không đơn thuần là một bức tranh thiên nhiên mà còn là ẩn dụ cho trường học – nơi vun trồng những tâm hồn trẻ thơ, nơi gieo mầm cho trí tuệ và đạo đức mai sau.
Ngay từ những câu thơ mở đầu, tác giả đã phác họa một khu vườn lý tưởng:
“Giữa chốn thành Phương có cảnh vườn,
Cảnh vườn phong cảnh thực u nhàn.”
Không gian ấy không chỉ đẹp bởi cỏ cây hoa lá mà còn mang đến sự thư thái, tĩnh lặng – một môi trường hoàn hảo cho sự trưởng thành. Hoa cỏ trong vườn đa dạng sắc màu, mỗi loài mang một nét riêng, cũng như học trò trong trường học, mỗi em đều có cá tính, tài năng khác nhau:
“Thứ đẹp ở hoa, thứ ở lá,
Thứ về xuân hạ, thứ thu đông.”
Hình ảnh ấy gợi nhắc đến sự phong phú trong tâm hồn con người, mỗi người một vẻ đẹp riêng, nhưng khi cùng hòa quyện tạo nên một bức tranh tổng thể hài hòa và đầy sức sống.
Nhưng một khu vườn không thể tự nhiên xanh tốt nếu thiếu bàn tay chăm sóc, cũng như một đứa trẻ không thể trưởng thành nếu không có sự dạy dỗ của thầy cô. Nhà giáo chính là những người vun trồng, tưới tắm, dày công uốn nắn từng mầm non:
“Tưới nước vun phân: người giáo hoá,
Đầm thấm dồi dào ân móc mưa.”
Từng lời dạy của thầy cô như những cơn mưa nhẹ tưới mát tâm hồn học trò, giúp các em không chỉ giỏi tri thức mà còn vững vàng nhân cách. Công ơn ấy không thể đo đếm bằng thời gian, vì trái ngọt của hôm nay chính là thành quả từ bao năm vun trồng:
“Mùa xuân nở hoa, thu kết quả,
Vườn xuân ‘trí đức’ ngày thêm xuân.”
Những học trò trưởng thành, mang theo hương sắc của tri thức, của đạo đức, tiếp tục lan tỏa những giá trị cao đẹp mà thầy cô đã vun đắp.
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh tặng hoa tri ân, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với những người đã dạy dỗ ta nên người:
“Hái hoa đưa tặng người vun tưới,
Hương hoa sực nức vị ‘văn chương’.”
Câu thơ không chỉ là lời tri ân dành cho thầy cô mà còn là lời nhắc nhở về trách nhiệm của mỗi người đối với thế hệ sau. Khi đã được vun trồng, chúng ta cũng cần trở thành những người tiếp tục ươm mầm cho những thế hệ mai sau.
Với Cảnh học đường ân giáo dục, Đông Hồ không chỉ tôn vinh nghề giáo mà còn khắc họa một triết lý giáo dục nhân văn: một nền giáo dục đúng nghĩa không chỉ là truyền dạy tri thức mà còn là vun bồi nhân cách, để mỗi học trò khi trưởng thành đều mang theo ánh sáng của trí tuệ và lòng biết ơn.
*
Đông Hồ – Nhà thơ và người bảo tồn văn hóa dân tộc
Đông Hồ (1906-1969), tên thật Lâm Tấn Phác, là một nhà thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học có tầm ảnh hưởng lớn đối với nền văn học Việt Nam. Sinh ra tại Hà Tiên, vùng đất giàu truyền thống văn hóa, ông sớm bộc lộ niềm say mê đối với quốc văn và quốc ngữ, từ đó dành trọn đời để nghiên cứu, giảng dạy và sáng tác bằng tiếng Việt.
Là thành viên của nhóm “Hà Tiên tứ tuyệt”, Đông Hồ không chỉ sáng tác thơ mà còn viết văn, ký, khảo cứu, góp phần quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy văn hóa dân tộc. Ông từng sáng lập Trí Đức học xá, xuất bản tuần báo Sống, điều hành nhà xuất bản Bốn Phương và tạp chí Nhân Loại, với mục tiêu cổ vũ tinh thần dân tộc, đề cao giá trị tiếng Việt.
Thơ và văn của ông nhẹ nhàng, sâu sắc, giàu tình cảm, đi từ thể loại truyền thống đến hiện đại. Những tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến Thơ Đông Hồ, Linh Phượng, Cô gái xuân, Hà Tiên thập cảnh… Bên cạnh đó, ông cũng được biết đến là người tiên phong trong việc phát triển thư pháp chữ Quốc ngữ.
Cuộc đời và sự nghiệp của Đông Hồ là minh chứng cho một tấm lòng tha thiết với văn hóa Việt Nam. Ông mất năm 1969 ngay trên bục giảng khi đang giảng bài thơ Trưng Nữ Vương, để lại một di sản văn học đáng trân trọng.
Viên Ngọc Quý