Cảm nhận bài thơ: Cành liễu bên hồ – Huy Thông

Cành liễu bên hồ

 

Ánh trăng biếc lọc qua rừng rậm,
Khiến rừng sâu lấm tấm mảnh ngà,
Chập chùng núi tím nơi xa,
Canh dương êm ái thướt tha mặt hồ.

Qua sông mạnh, núi cao, rừng rộng,
Ta xông pha tìm bóng tình nương,
Than ôi! Trời nước mênh mang
Trong không gian rộng biết nàng nơi mô?

Ngang trời thẫm, lẻ loi, chiếc nhạn.
Âm thầm kêu gọi bạn nơi xa,
Lạnh lùng, gió cuốn. Hững hờ,
Trên cao một đám mây mờ bay qua.

Nhưng… ai để tóc bay trước gió?
Ai bâng khuâng đứng đó đợi chờ?
Ôi! sung sướng! Chính người xa xưa!
Chính nàng lặng đứng thiết tha bên hồ!

Ta vội vã mau chân, rảo bước
Băng lại gần làn nước trăng soi…
Nhưng ta chỉ thấy, than ôi!
Trên hồ cành liễu lả lơi in hình.


Tháng 9 năm 1934

*

Cành liễu bên hồ – Ảo ảnh của tình yêu và nỗi niềm khắc khoải

Tình yêu đôi khi không chỉ là sự chờ mong, mà còn là hành trình kiếm tìm trong vô vọng. Có những lúc, ta tưởng chừng đã chạm vào hạnh phúc, nhưng rồi nhận ra đó chỉ là một ảo ảnh xa vời. Trong bài thơ “Cành liễu bên hồ”, Huy Thông đã vẽ nên một bức tranh mộng mị, nơi con người đi qua muôn trùng gian khó để tìm kiếm tình yêu, nhưng rồi cuối cùng, thứ nhận lại chỉ là bóng hình hư ảo.

Hành trình kiếm tìm – Khát vọng về một tình yêu xa xôi

Mở đầu bài thơ là khung cảnh thiên nhiên huyền ảo:

“Ánh trăng biếc lọc qua rừng rậm,
Khiến rừng sâu lấm tấm mảnh ngà,
Chập chùng núi tím nơi xa,
Cành dương êm ái thướt tha mặt hồ.”

Trăng chiếu xuyên rừng, núi tím chập chùng, hồ nước lặng lờ – tất cả gợi lên một thế giới đẹp nhưng huyễn hoặc. Đó là không gian của giấc mộng, của những gì mơ hồ, mong manh. Chính trong không gian ấy, nhân vật trữ tình bước vào cuộc hành trình của mình:

“Qua sông mạnh, núi cao, rừng rộng,
Ta xông pha tìm bóng tình nương.”

Người đi tìm tình yêu, bất chấp mọi khó khăn, vượt sông, băng rừng, leo núi. Đó không chỉ là hành trình thể xác, mà còn là hành trình của trái tim – một trái tim khao khát gặp lại người thương, một trái tim không chịu khuất phục trước khoảng cách và thời gian.

Nhưng rồi, thực tại lại vùi dập hy vọng ấy:

“Than ôi! Trời nước mênh mang
Trong không gian rộng biết nàng nơi mô?”

Giữa trời nước bao la, tình nương nơi đâu? Người kiếm tìm chợt nhận ra sự nhỏ bé của mình trước vũ trụ vô tận. Tình yêu mà anh theo đuổi có thật không? Hay đó chỉ là một ảo vọng giữa không gian mênh mông này?

Chiếc nhạn lẻ loi – Hình ảnh của sự cô đơn tuyệt đối

Không chỉ con người mới cô đơn, mà thiên nhiên cũng mang đầy nỗi sầu:

“Ngang trời thẫm, lẻ loi, chiếc nhạn.
Âm thầm kêu gọi bạn nơi xa,
Lạnh lùng, gió cuốn. Hững hờ,
Trên cao một đám mây mờ bay qua.”

Chiếc nhạn lạc đàn bay giữa bầu trời thăm thẳm, cất tiếng kêu gọi trong vô vọng. Hình ảnh ấy chẳng khác gì trái tim của nhân vật trữ tình – khao khát tìm kiếm tri âm, nhưng chỉ nhận lại sự lặng im của trời đất. Gió vẫn thổi, mây vẫn trôi, nhưng tất cả đều hờ hững. Không có hồi đáp, không có dấu hiệu nào cho thấy tình yêu mà anh tìm kiếm vẫn còn tồn tại.

Chiếc nhạn, cánh chim trời cô đơn, chính là bóng dáng của con người trong tình yêu – mãi mãi kiếm tìm, mãi mãi khắc khoải.

Khoảnh khắc ngỡ chạm vào hạnh phúc – Nhưng chỉ là ảo ảnh

Trong nỗi tuyệt vọng, bỗng nhiên, một tia sáng lóe lên:

“Nhưng… ai để tóc bay trước gió?
Ai bâng khuâng đứng đó đợi chờ?
Ôi! sung sướng! Chính người xa xưa!
Chính nàng lặng đứng thiết tha bên hồ!”

Một hình bóng quen thuộc hiện ra! Tình yêu tưởng chừng đã mất nay bỗng sống lại trước mắt. Nàng đứng đó, mái tóc bay theo gió, đôi mắt đượm buồn như vẫn đang chờ đợi.

Khoảnh khắc ấy là cao trào của bài thơ – khoảnh khắc mà nhân vật trữ tình tưởng như đã tìm lại được người yêu dấu. Trái tim vỡ òa trong hạnh phúc, đôi chân vội vã lao đến…

Nhưng rồi…

“Ta vội vã mau chân, rảo bước
Băng lại gần làn nước trăng soi…
Nhưng ta chỉ thấy, than ôi!
Trên hồ cành liễu lả lơi in hình.”

Tất cả chỉ là ảo ảnh. Hình bóng nàng hóa ra chỉ là một cành liễu in bóng trên mặt hồ. Người đi tìm hạnh phúc, nhưng cuối cùng, thứ chạm vào chỉ là một thứ mong manh như làn nước, như ánh trăng.

Kết – Một nỗi buồn đẹp nhưng day dứt

Bài thơ “Cành liễu bên hồ” là câu chuyện về một cuộc tìm kiếm vô vọng. Nhân vật trữ tình đã đi qua muôn trùng cách trở, nhưng cuối cùng, thứ nhận lại chỉ là bóng hình ảo mộng.

Phải chăng tình yêu cũng như vậy? Phải chăng có những mối tình, dù ta có cố gắng đến đâu, cũng mãi mãi chỉ là một hình bóng xa xăm, không bao giờ có thể nắm giữ?

Tác phẩm của Huy Thông vừa đẹp, vừa buồn. Đẹp ở những hình ảnh lung linh của thiên nhiên, đẹp ở tấm lòng chung thủy của người đi tìm tình yêu. Nhưng cũng buồn, vì cuối cùng, mọi thứ chỉ là một giấc mộng hão huyền.

Và có lẽ, ai từng yêu sâu sắc đều có thể thấy mình trong bài thơ này – từng có lúc tưởng chừng đã chạm vào hạnh phúc, nhưng rồi nhận ra, đó chỉ là một cành liễu bên hồ.

*

Phạm Huy Thông (1916–1988) – Nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học xã hội Việt Nam

Phạm Huy Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình kinh doanh lớn, giàu tinh thần dân tộc. Ông là hậu duệ của danh tướng Phạm Ngũ Lão, quê gốc ở Hưng Yên.

Ngay từ nhỏ, Phạm Huy Thông đã bộc lộ tài năng xuất sắc. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới với bài Tiếng địch sông Ô khi mới 16 tuổi. Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp cử nhân Luật tại Viện Đại học Đông Dương, sau đó sang Pháp tiếp tục học tập và trở thành Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử – Địa khi mới 26 tuổi. Ông từng là Giáo sư, Ủy viên Hội đồng Giáo dục tối cao của Pháp và có thời gian giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946.

Sau khi trở về Việt Nam, ông giữ nhiều trọng trách như Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956–1966), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1967–1988), Đại biểu Quốc hội khóa II, III. Ông có nhiều đóng góp trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học với các công trình tiêu biểu như Thời đại các Vua Hùng dựng nước, Khảo cổ học 10 thế kỷ sau Công nguyên, Khảo cổ học với văn minh thời Trần.

Bên cạnh sự nghiệp khoa học, ông còn là nhà thơ, có thơ được nhắc đến trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân. Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Ông qua đời ngày 21 tháng 6 năm 1988 tại Hà Nội.

Viên Ngọc Quý.

 

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *