Chân tình
Mắt em là sáu đại
Mà xinh đẹp rạng ngời
Làm sao tôi nắm bắt chúng làm của tôi?
Làm sao tôi khiến chúng trở nên bất diệt?
Nhưng tại chiều sâu tâm linh, tôi biết
Trong đôi bàn tay ghì chặt
Mắt em không thể thực sự còn là mắt em
Giọng nói em là sáu đại
Mà thanh tao tuyệt vời
Làm sao tôi nắm bắt nó làm của tôi?
Làm sao tôi khiến nó trở nên bất diệt?
Nhưng tại chiều sâu tâm linh, tôi biết
Trong đôi bàn tay ghì chặt
Giọng nói em không thể thực sự còn là giọng nói em.
Nụ cười em là sáu đại
Mà rạng rỡ tuyệt vời
Làm sao tôi nắm bắt nó thành của tôi?
Làm sao tôi khiến nó trở nên bất diệt?
Nhưng tại chiều sâu tâm linh, tôi biết
Trong đôi bàn tay ghì chặt
Nụ cười em không thể thực sự còn là nụ cười em.
Mắt em là vô thường
Vâng, tôi đã được dạy như thế
Và tôi cũng thấy như thế
Nhưng mắt em vẫn xinh đẹp như thường
Và chính vì chúng vô thường
Nên chúng càng xinh đẹp
Những gì trên thế gian mà mong manh
Là những gì đẹp nhất
Một ngôi sao băng
Một giọt sương sớm
Một đóa phù dung.
Mắt em là vô ngã
Vì vậy mắt em càng rạng rỡ
Ngã có dính líu gì tới một đôi mắt trong?
Tôi muốn chiêm ngưỡng đôi mắt em
Dù tôi biết chúng là vô thường
Dù tôi biết chúng là vô ngã
Mắt em xinh đẹp
Tôi biết mắt ấy vô thường
Nhưng vô thường thì vô thường, có gì sai trái?
Không vô thường, có cái gì hiện hữu được chăng?
Mắt em xinh đẹp
Tôi được dạy rằng mắt ấy không phải là em
Rằng mắt ấy vô ngã
Nhưng vô ngã thì vô ngã, có gì sai trái?
Nếu có ngã, làm sao sự vật có mặt được trên đời?
Vì thế cho nên
Dù mắt em chỉ được làm bằng sáu đại
Dù mắt em vô thường
Dù mắt em không phải là em
Mắt em vẫn xinh đẹp
Và tôi vẫn muốn chiêm ngưỡng mắt em
Chừng nào mắt em vẫn còn biểu hiện.
Biết mắt em vô thường
Tôi chiêm ngưỡng mà không cần muốn nó là của tôi
Tôi chiêm ngưỡng mà không cần nó có mặt muôn đời
Chiêm ngưỡng mắt em
Tôi còn giữ tự do tôi nguyên vẹn
Yêu mắt em
Tôi tập thương yêu thật sự
Tôi thấy mắt em quả thực được làm bằng sáu đại,
Này địa, này thủy
Này hỏa, này phong
Này không, này thức
Sáu đại ấy cũng vô cùng mầu nhiệm như đôi mắt em.
Yêu mắt em
Nhưng tôi cũng yêu trời xanh
Yêu tiếng nói em
Nhưng tôi cũng yêu tiếng chim ca lảnh lót
Yêu nụ cười em
Nhưng tôi cũng yêu những con bướm đủ màu
đang nhẹ lướt trên muôn hoa
Mỗi phút giây
Tôi học làm người yêu chân thật
Mỗi phút giây
Tôi làm phát hiện chân tình
Mắt em xinh đẹp
Tiếng nói em, tiếng cười em mầu nhiệm
Như trời xanh kia
Những tiếng chim líu lo kia
Và những con bướm nhẹ nhàng kia cũng vô cùng mầu nhiệm
Tôi thương yêu tất cả
Tôi nguyền bảo vệ cho tất cả
Vâng, tôi biết
Thương yêu là kính ngưỡng
Là bảo vệ
Là không xâm phạm
Kính ngưỡng và bảo vệ
Đó là tình tôi.
(Bài thơ nằm trong tuyển tập “Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt”)
*
Thương yêu là không chiếm hữu – Tình yêu trong cái thấy sâu sắc
Trong bài thơ “Chân tình”, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đưa người đọc bước vào một không gian thiền quán thấm đẫm yêu thương, nơi mà tình yêu không còn là một sợi dây ràng buộc, không còn là khao khát chiếm hữu, mà là một nghệ thuật chiêm ngưỡng, kính ngưỡng và buông xả.
Tình yêu, dưới cái nhìn của thiền sư, không bắt đầu từ sự khao khát “giữ lấy”, mà bắt đầu từ cái thấy sâu sắc: mọi thứ trên đời này đều được làm bằng sáu đại – đất, nước, lửa, gió, không, và thức. Mắt, giọng nói, nụ cười của người thương cũng như vậy. Chúng đẹp, nhưng mong manh. Chúng hiện hữu, nhưng luôn trong dòng chảy của vô thường. Và chính vì vô thường, nên chúng lại càng trở nên quý giá.
Những gì trên thế gian mà mong manh
Là những gì đẹp nhất
Chúng ta thường nghĩ yêu là giữ, là khiến người kia “ở lại mãi”, là gắn bó bằng mọi giá. Nhưng trong bài thơ, thiền sư dạy rằng yêu thực sự là khi ta biết chiêm ngưỡng mà không cần nắm bắt:
Tôi chiêm ngưỡng mà không cần muốn nó là của tôi
Tôi chiêm ngưỡng mà không cần nó có mặt muôn đời
Đó là tình yêu không đòi hỏi, không ép buộc, không xâm phạm. Một tình yêu không trói buộc người kia trong kỳ vọng bất tận, mà giữ cho họ không gian để biểu hiện tự do và tỏa sáng trong chính bản thể của họ.
Tôi còn giữ tự do tôi nguyên vẹn
Yêu mắt em
Tôi tập thương yêu thật sự
Thông điệp của bài thơ không dừng lại ở tình yêu đôi lứa. Nó mở rộng thành một cái nhìn bao trùm cả vũ trụ: yêu đôi mắt người thương cũng là yêu trời xanh, yêu tiếng nói ấy cũng là yêu tiếng chim, yêu nụ cười ấy cũng là yêu những cánh bướm bay qua muôn hoa. Khi tâm ta mở ra như vậy, ta không còn phân biệt giữa cái “của ta” và “không phải của ta”. Tình yêu chân thật sẽ vượt khỏi biên giới của bản ngã, của chấp thủ, và trở thành tình thương lớn – không phân biệt, không điều kiện.
Mỗi phút giây
Tôi học làm người yêu chân thật
Mỗi phút giây
Tôi làm phát hiện chân tình
Tình yêu như thế không cần lời thề, không cần kiểm soát, chỉ cần sự có mặt trọn vẹn trong từng phút giây. Và từ nơi đó, tình yêu không còn là cảm xúc ngắn ngủi, mà trở thành tuệ giác sống động – là một sự kính ngưỡng, là một nguyện ước được bảo vệ, được gìn giữ, được tôn trọng.
Thương yêu là kính ngưỡng
Là bảo vệ
Là không xâm phạm
Bài thơ “Chân tình” không chỉ là một áng thơ tình. Nó là một pháp thoại, một lời nhắn nhủ dịu dàng về cách yêu trong tỉnh thức, về việc buông bỏ sự chiếm hữu để có thể thực sự chạm vào điều mầu nhiệm đang biểu hiện quanh ta. Một tình yêu như thế, không làm tổn thương, không làm đau – mà chỉ giúp ta lớn lên, tự do hơn, và gần hơn với cội nguồn của sự sống.
Tình yêu, dưới ánh sáng của chánh niệm, không phải là khát vọng giữ lấy, mà là lời nguyện âm thầm gìn giữ cái đẹp mong manh của cuộc đời. Và đó chính là chân tình.
*
Thiền sư Thích Nhất Hạnh – Vị sứ giả của hòa bình và chánh niệm
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926–2022) là một trong những vị thiền sư lỗi lạc và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của Phật giáo thế giới đương đại. Không chỉ là một nhà tu hành, ngài còn là nhà văn, nhà thơ, học giả, nhà hoạt động xã hội vì hòa bình và người tiên phong đưa chánh niệm (mindfulness) vào đời sống thường nhật một cách thiết thực, giản dị nhưng sâu sắc.
Sinh ra tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, Thích Nhất Hạnh xuất gia từ năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Sau quá trình tu học và nghiên cứu, ngài đã có nhiều đóng góp quan trọng cho Phật giáo hiện đại, đặc biệt là trong việc kết nối tinh thần đạo Phật với các vấn đề xã hội. Ngài là người sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện, Làng Mai (Plum Village) ở Pháp – một trung tâm tu học nổi tiếng thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới.
Thông qua hàng trăm tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người về lối sống tỉnh thức, từ bi và không bạo lực. Những khái niệm như “hơi thở ý thức”, “thiền đi”, “an trú trong hiện tại” trở nên gần gũi với nhiều người nhờ vào cách giảng giải mộc mạc, giàu hình ảnh của ngài. Các tác phẩm tiêu biểu như Phép lạ của sự tỉnh thức, Đường xưa mây trắng, An lạc từng bước chân, Giận … là những cuốn sách được yêu mến và tìm đọc rộng rãi.
Trong suốt cuộc đời, ngài cũng là một nhà hoạt động tích cực cho hòa bình. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử Giải Nobel Hòa bình nhờ những nỗ lực vận động chấm dứt chiến tranh Việt Nam bằng con đường đối thoại và bất bạo động.
Ảnh hưởng và di sản của ngài không chỉ lan rộng trong cộng đồng Phật giáo mà còn được quốc tế ghi nhận sâu sắc. Năm 2011, khu tượng đài “Remember Them: Champions for Humanity” với diện tích khoảng 100m2 được đặt tại khu công viên Henry J. Kaiser Memorial, thành phố Oakland, tiểu bang California (Hoa Kỳ). Bức tượng điêu khắc chân dung 25 nhân vật nổi tiếng còn sống và đã qua đời, đã có cống hiến lớn lao vì quyền con người trên thế giới. Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một trong số những nhân vật được chọn để thể hiện trên tượng đài này, với những đóng góp của ngài cho công cuộc xây dựng hòa bình của nhân loại.
Vào ngày 11 tháng 4 năm 2025, thành phố New York đã chính thức đồng đặt tên đoạn đường West 109th Street (từ Riverside Drive đến Broadway) là “Thích Nhất Hạnh Way” để vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là nơi ngài từng sống và giảng dạy trong những năm 1960 khi theo học tại Union Theological Seminary và giảng dạy tại Đại học Columbia./.
Viên Ngọc Quý