Cảm nhận bài thơ: Chị Dung – Xuân Diệu

Chị Dung

Một rễ cố nông trong phát động quần chúng ở làng Xuân Phả, Thọ Xuân, Thanh Hoá.

Sáu mươi, người gọi CHỊ Dung,
Tuổi già vẫn CHỊ, chưa chồng, chưa con.
Cây xanh giam mãi hèo mòn,
Hoa tươi không nở, trái tròn chẳng đơm.
Sớm mồ côi mẹ cô đơn,
Đói nghèo cha phải đem con đường cùng,
Bán đi mấy chuỗi tiền đồng,
Tuổi mười lăm đã vào vòng mụ Di!
Từ ngày vào cửa con ni,
Bàn tay địa chủ còn chi nhân tình!
Sớm khuya lam lũ một mình,
Cổng ngăn thăm thẳm nuốt hình chị Dung.
Mình làm, nó hưởng ung dung,
Lại còn đánh chửi, coi không phải người:
– “Chó hơn mày một cái đuôi!
“Mày hơn con chó một đôi đũa cầm!”
Tuổi xuân như đoá trăng rằm,
Nó giam, nó giữ, nó cầm hết duyên!
Mấy lần có bạn hỏi xin,
Vu oan nó đổ trộm tiền, rời xa!
Lần lừa một tuổi một qua,
Gái tơ cố để thành ra nạ giòng,
Để mà suốt kiếp lưng cong
Làm tôi mọi nó, không mong đổi đời!
– “Thân tôi khác thể chim trời,
Đêm về ổ rác, chút rồi lại đi.
Suốt ngày ngoài ruộng biết chi,
Những rơm cùng cỏ, tha đi, gánh về.
Vùi đầu cục đất u mê,
Tối tăm bưng bít, ai hề mở ra!
Đến đêm mới trở lại nhà,
Lại đời xó bếp diễn qua đêm trường!
Đâm, xay, dậm, đạp, giần, sàng,
Xay quay cái mặt, sàng ràng cái thân!
Khi tay mệt quá lả dần,
Giằng xay trở lại cuốn vần tôi đi!
Mặt người con mẹ Hội Di,
Ai hay chúa ngục một ly chẳng rời!
May trời có tối, có mai,
Thân tôi mới nghỉ ngơi vài phút giây.
Lấp vùi bốn chục năm nay,
Chẳng hay có Đảng, không hay có Cờ;
Chẳng hay nước có Cụ Hồ,
Chín năm khởi nghĩa, bây giờ mới hay;
Bây giờ Đội đến dắt tay,
Đốt bùa dán ngục, chặt dây trói hồn.
Tôi nghe trí trở về khôn,
Bước chân thêm vững, máu dồn thêm hăng;
Đứng lên đạp hết bất bằng!
Con kia mưu chước chớ hòng rẽ chia!
Một hôm ốm họp về khuya,
Nó bưng bát thuốc mân mê lại gần;
Hắt liền xuống đất, tôi phân:
– “Đời tao mấy chục năm trần, ai chăm!
Mày dù một bụng dao găm,
Đợi ngày ra trước nông dân gục đầu!”

 *
*   *

Chị Dung nay hết đoạn sầu
Đời sau phát động tươi màu cỏ hoa.
Chấp hành phụ nữ tham gia,
Hai gian ngói được ở nhà Nông dân;
Ruộng nương, ăn họp chuyên cần;
Tuổi già chỉ một mơ gần nữa thôi:
– “Có em bé nhỏ mà nuôi,
Sớm hôm âu yếm, càng vui bội phần.”


7-1954

*

Chị Dung – Người phụ nữ bước ra từ bóng tối

Trong dòng chảy của thơ ca cách mạng Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ chịu nhiều bất công, áp bức đã trở thành một biểu tượng sâu sắc. Bài thơ Chị Dung của Xuân Diệu khắc họa một người phụ nữ như thế – một cuộc đời đầy khổ ải, nhưng không khuất phục trước số phận, mà vươn lên mạnh mẽ khi ánh sáng cách mạng soi đường.

Một kiếp đời bị giam cầm

Ngay từ những câu thơ đầu tiên, hình ảnh chị Dung hiện lên đầy xót xa:

“Sáu mươi, người gọi CHỊ Dung,
Tuổi già vẫn CHỊ, chưa chồng, chưa con.”

Tuổi thanh xuân của chị trôi qua trong cảnh đời lầm than. Không gia đình, không con cái, chị sống như một chiếc bóng giữa cuộc đời. Từ khi còn bé, chị đã bị đẩy vào cảnh mồ côi, bị cha bán đi trong bước đường cùng. Cuộc đời chị từ đó rơi vào tay bọn địa chủ tàn ác, sống kiếp tôi đòi:

“Bàn tay địa chủ còn chi nhân tình!
Sớm khuya lam lũ một mình,
Cổng ngăn thăm thẳm nuốt hình chị Dung.”

Bị bóc lột sức lao động, bị đánh đập, chửi rủa, chị không còn được coi là một con người. Câu nói cay nghiệt của bọn địa chủ vang lên như một vết dao cứa vào lòng người đọc:

“Chó hơn mày một cái đuôi!
Mày hơn con chó một đôi đũa cầm!”

Chị Dung không chỉ bị tước đoạt quyền sống mà còn bị chà đạp cả nhân phẩm. Tuổi xuân của chị bị giam cầm, bị cướp đoạt một cách tàn nhẫn. Hết lần này đến lần khác, chị bị vu oan, bị ngăn cản hạnh phúc, bị đẩy đến tận cùng nỗi đau.

Tận cùng bóng tối, ánh sáng bừng lên

Cuộc đời của chị Dung cứ thế trôi đi trong bóng tối, cho đến khi cách mạng đến với làng Xuân Phả. Như một ngọn lửa bừng sáng giữa đêm đen, cách mạng đã mở ra con đường mới cho chị. Đội cải cách ruộng đất đến, mang theo ánh sáng của Đảng, của Hồ Chí Minh.

“Lấp vùi bốn chục năm nay,
Chẳng hay có Đảng, không hay có Cờ;
Chẳng hay nước có Cụ Hồ,
Chín năm khởi nghĩa, bây giờ mới hay.”

Bị vùi dập suốt một đời, giờ đây chị mới thực sự được sống, được làm chủ vận mệnh của mình. Sự giác ngộ ấy đã khiến chị mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Không còn là người đàn bà cam chịu, chị đứng lên đấu tranh, không còn sợ hãi trước kẻ thù. Khi địa chủ giả nhân giả nghĩa mang thuốc đến, chị hắt ngay xuống đất, quyết không chấp nhận lòng thương hại giả dối.

“Mày dù một bụng dao găm,
Đợi ngày ra trước nông dân gục đầu!”

Đó là lời tuyên án mạnh mẽ dành cho những kẻ đã dày xéo lên cuộc đời chị.

Một cuộc đời mới nở hoa

Sau những năm tháng lầm than, chị Dung cuối cùng cũng được hưởng cuộc sống tự do. Chị có nhà, có ruộng, được tham gia Hội Phụ nữ, được làm chủ cuộc đời mình. Nhưng mơ ước giản dị nhất của chị lại là:

“Có em bé nhỏ mà nuôi,
Sớm hôm âu yếm, càng vui bội phần.”

Sau bao năm tháng bị tước đoạt tình thương, chị không mong gì hơn là được yêu thương, được chăm sóc một sinh linh bé nhỏ. Giấc mơ ấy giản dị nhưng lại đầy ý nghĩa, bởi nó chứng minh một điều: những con người từng bị áp bức vẫn có thể hồi sinh, vẫn có thể tìm thấy niềm hạnh phúc nhỏ bé giữa cuộc đời.

Lời kết

Bài thơ Chị Dung không chỉ là câu chuyện về một người phụ nữ, mà còn là biểu tượng cho hàng vạn người phụ nữ Việt Nam đã sống trong bóng tối trước cách mạng. Cuộc đời chị là minh chứng cho tội ác của chế độ phong kiến, đồng thời cũng là lời ca ngợi sức mạnh của cách mạng – đã đưa những con người khổ đau bước ra ánh sáng, giúp họ làm chủ vận mệnh.

Với giọng thơ đầy cảm xúc, Xuân Diệu đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ kiên cường, từ bóng tối đứng lên, từ nô lệ trở thành chủ nhân của cuộc đời mình. Và đó cũng chính là thông điệp sâu sắc mà bài thơ gửi gắm: cách mạng không chỉ giải phóng đất nước, mà còn giải phóng từng con người, mang lại cho họ quyền được sống một cuộc đời xứng đáng.

*

Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam

Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.

Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.

Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.

Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:

“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *