Chỉ về phía đó
– Ngày ấy con còn chập chững,
Tiễn cha, cười nở môi hồng.
Lòng trẻ nguyên tờ giấy trắng,
Biết đâu sông lạnh Cửa Tùng!
… Sóng nước trôi màu cờ đỏ,
Tàu đi, em vẫy theo anh.
Bắt chước, con xoè tay nhỏ
Vẫy cha, hay vẫy trời xanh?
… Con giờ đã biết hỏi cha,
Em trỏ chân trời phía Bắc.
Con hỏi: “Cha bao giờ về?”
Em bảo: “Chừng nào thống nhất.”
Con rằng: “Chắc bữa cha về
Mua Bé nhiều quà đấy nhỉ!”
Nào hay thống nhất là gì,
Con cũng cười vui thích chí.
Ai dè chỉ nói một câu,
Con nhớ như in như khắc.
Nựng con, em hỏi: “Cha đâu?”
Tay nhỏ lại tìm phương Bắc.
Có bữa chơi cùng trẻ xóm,
Thì thào câu chuyện riêng tây,
Con bỗng chỉ về phía đó:
“- Cha tao đương ở nơi này…
Tao biết, chừng nào thống nhất,
Cha tao lại trở về đây.
Quà bánh một nhà để chật,
Cho tao, tao sẽ cho mày.”
Trẻ xóm vui theo chuyện kể,
Đầu nghiêng, đôi mắt mở tròn…
Anh ở dặm nghìn xa thế,
Có nhìn thấy rõ tay con?
Tháng 1-1958
*
Cánh tay nhỏ và phương Bắc xa xôi – Tình cha con giữa hai đầu đất nước
Có những bài thơ không cần nhiều tầng biểu tượng, không cần âm điệu cầu kỳ. Chỉ bằng những hình ảnh đời thường, bằng giọng nói của trẻ thơ và tình cảm lặng lẽ mà sâu sắc, bài thơ “Chỉ về phía đó” của Nguyễn Bính đã khắc hoạ một cách đầy xúc động tình cha con trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt. Ở đó, phương Bắc không chỉ là hướng trời, mà là nơi neo giữ tình yêu, là miền mong nhớ của người ở lại, và là giấc mơ thơ trẻ chưa kịp hiểu mà đã khắc sâu vào trái tim non nớt.
Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh tiễn đưa giản dị:
Ngày ấy con còn chập chững,
Tiễn cha, cười nở môi hồng.
Lòng trẻ nguyên tờ giấy trắng,
Biết đâu sông lạnh Cửa Tùng!
Người cha ra đi tập kết, đứa trẻ chỉ mới “chập chững”, chưa hiểu gì về chia ly, chiến tranh, chỉ hồn nhiên vẫy tay tiễn biệt. Tấm lòng trẻ thơ ví như “tờ giấy trắng”, chưa viết dòng buồn, chưa biết “sông lạnh” là gì, càng không hiểu dòng Cửa Tùng kia là ranh giới giữa đoàn viên và xa cách. Cái ngây thơ ấy càng khiến cảnh chia ly trở nên nhức nhối.
Sóng nước trôi màu cờ đỏ,
Tàu đi, em vẫy theo anh.
Bắt chước, con xoè tay nhỏ
Vẫy cha, hay vẫy trời xanh?
Một câu hỏi như cắt vào lòng: “Vẫy cha, hay vẫy trời xanh?” – bởi tay con còn quá nhỏ, nỗi chia ly còn quá lớn. Bàn tay non thơ ấy không biết rằng một cái vẫy tay cũng có thể là lần cuối trong nhiều năm. Nguyễn Bính đặt câu hỏi không phải để tìm câu trả lời, mà để khơi dậy trong lòng người đọc một sự lay động, xót xa.
Rồi tháng năm trôi qua. Đứa trẻ lớn lên, bắt đầu biết hỏi:
Con giờ đã biết hỏi cha,
Em trỏ chân trời phía Bắc.
Con hỏi: “Cha bao giờ về?”
Em bảo: “Chừng nào thống nhất.”
Câu trả lời tưởng như đơn giản, nhưng lại là sự trì hoãn không định ngày. “Chừng nào thống nhất” – một lời hứa chưa biết bao giờ mới thành hiện thực. Nhưng với đứa trẻ, câu ấy trở thành niềm tin. Trẻ không hiểu hết ý nghĩa của thống nhất, chỉ tưởng tượng đó là ngày đoàn tụ, là ngày có cha, có quà.
Nào hay thống nhất là gì,
Con cũng cười vui thích chí.
Câu thơ vừa ngây thơ, vừa đau đớn. Nỗi đau nằm ở chỗ: một đứa trẻ không hiểu “thống nhất” là gì, nhưng vẫn vui vì nghĩ đó là ngày hạnh phúc. Trẻ thơ sống bằng niềm tin, bằng lời hứa, và lời hứa đó – dù mơ hồ – đã in đậm vào ký ức con:
Ai dè chỉ nói một câu,
Con nhớ như in như khắc.
Nựng con, em hỏi: “Cha đâu?”
Tay nhỏ lại tìm phương Bắc.
Hình ảnh “tay nhỏ lại tìm phương Bắc” là trung tâm cảm xúc của cả bài thơ. Phía Bắc – nơi người cha đang ở – trở thành la bàn tinh thần, là nơi đứa trẻ luôn hướng về bằng một niềm tin thơ dại mà trong trẻo.
Đỉnh cao của bài thơ nằm ở khổ thơ cuối:
Con bỗng chỉ về phía đó:
“– Cha tao đương ở nơi này…
Tao biết, chừng nào thống nhất,
Cha tao lại trở về đây.
Quà bánh một nhà để chật,
Cho tao, tao sẽ cho mày.”
Giọng thơ chuyển thành lời kể trẻ con. Trong cái nói ngây ngô là cả một thế giới hy vọng. Đứa trẻ tin tưởng tuyệt đối: cha sẽ về, và sẽ đem “quà bánh một nhà để chật”, đến mức có thể “cho mày”. Tình yêu thương và lòng hào phóng của trẻ thơ không chỉ dành cho bản thân, mà lan ra thành niềm vui sẻ chia – một ước mơ thật đẹp giữa bối cảnh nghèo đói và chia cắt.
Khổ thơ kết khẽ khàng mà đầy ám ảnh:
Trẻ xóm vui theo chuyện kể,
Đầu nghiêng, đôi mắt mở tròn…
Anh ở dặm nghìn xa thế,
Có nhìn thấy rõ tay con?
Câu hỏi cuối cùng vang lên như một tiếng vọng giữa hai bờ đất nước. “Anh” – người cha – ở tận nghìn dặm, có nhìn thấy được cánh tay nhỏ của con đang chỉ về phía mình, trong ánh mắt mở tròn đầy mong đợi? Đó không chỉ là câu hỏi cho người cha, mà là câu hỏi cho cả thời đại, cho cả một dân tộc: liệu những chia cách có thể khiến người thân không còn thấy nhau?
“Chỉ về phía đó” không chỉ là bài thơ về một đứa trẻ nhớ cha, mà là một bản tình ca buồn của thời đất nước phân ly. Trong những câu thơ ngắn, Nguyễn Bính đã dồn nén biết bao nhiêu cảm xúc: nỗi đau chia xa, sự hy sinh thầm lặng, và một niềm tin trong trẻo đến nghẹn ngào của đứa bé.
Và có lẽ, nếu ánh mắt người cha nơi phương Bắc kia có thật sự nhìn thấy tay con mình chỉ về phía ấy – thì đó chính là sức mạnh làm nên ngày thống nhất. Vì cuối cùng, không phải những tiếng súng, mà chính tình yêu – lặng lẽ, kiên cường và thơ dại – mới là điều giữ đất nước này còn nguyên một trái tim.
*
Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.
Viên Ngọc Quý