Chiếc cáng thơ
Tặng Bà huyện Thanh Quan
Núi chập chùng cao, nước uốn quanh,
Bãi dâu ngăn ngắt giãi màu xanh.
Nhìn xa non nước chiều thu vắng,
Một mảnh tình riêng với một mình.
Ta nhớ Nàng Thơ xưa mến yêu,
Chiều xuân đủng đỉnh cáng yêu kiều.
Trao hồn man mác tình non nước,
Những vận thơ vàng phơi phới reo.
Nào buổi Đèo Ngang bóng xế tà;
Hoàng hôn theo mỏi cánh chim xa.
Thăng Long dừng bước trông hoài cổ,
Trần Võ trầm bay trước phật toà,
Non nước giờ đây dậy ý thơ,
Mà người non nước gió sương mờ.
Ta nhìn xa vắng còn như thấy.
Đủng đỉnh nàng đi chiếc cáng thơ.
*
Chiếc cáng thơ và bóng dáng người xưa
Có những vần thơ như cánh chim hoài niệm, đưa ta trở về một thời quá vãng, nơi những tâm hồn thi nhân gửi gắm nỗi niềm vào cảnh sắc non sông. Chiếc cáng thơ của Anh Thơ là một khúc nhạc trầm mặc, một sự tri ân tha thiết dành cho Bà Huyện Thanh Quan – người nữ sĩ tài hoa của nền thi ca cổ điển Việt Nam.
Bài thơ mở ra với bức tranh thiên nhiên thoáng đãng nhưng thấm đượm nét u hoài:
“Núi chập chùng cao, nước uốn quanh,
Bãi dâu ngăn ngắt giãi màu xanh.”
Cảnh sắc ấy như một tấm gương phản chiếu tâm hồn thi nhân, nơi từng đường nét của non nước hòa quyện với nỗi niềm nhân thế. Trong không gian ấy, người thơ xưa Bà Huyện Thanh Quan hiện lên qua hình ảnh chiếc cáng nhẹ đưa bước chân nàng qua những miền đất nước.
“Ta nhớ Nàng Thơ xưa mến yêu,
Chiều xuân đủng đỉnh cáng yêu kiều.”
Cách xưng tụng “Nàng Thơ” đầy trân quý, thể hiện sự tôn kính của một nữ thi sĩ dành cho một nữ thi sĩ. Hình ảnh Bà Huyện Thanh Quan hiện lên không chỉ là một nhân vật lịch sử, mà là biểu tượng của một tâm hồn thi nhân lãng đãng, gửi gắm tình quê, tình nước vào những vần thơ thanh thoát.
Bài thơ dẫn dắt ta đi qua những miền ký ức của Bà Huyện Thanh Quan: Đèo Ngang lúc hoàng hôn, thành Thăng Long rêu phong, bóng khói trầm lặng lẽ bay nơi đền Trấn Võ. Mỗi địa danh không chỉ là một địa điểm, mà còn là dấu ấn của thời gian, nơi bà từng đặt chân, từng gửi gắm tâm tư vào câu chữ.
Nhưng rồi, hiện tại và quá khứ giao thoa, hình bóng người xưa dần nhạt mờ trong gió sương thời gian:
“Non nước giờ đây dậy ý thơ,
Mà người non nước gió sương mờ.”
Một câu thơ như tiếng thở dài, tiếc nuối cho những giá trị xưa đang dần khuất bóng. Song, dù con người có tan vào bụi thời gian, những vần thơ vẫn còn vang vọng, vẫn còn đó hình ảnh “đủng đỉnh nàng đi chiếc cáng thơ.”
Hình ảnh chiếc cáng không chỉ là phương tiện di chuyển, mà còn là biểu tượng cho hành trình sáng tác, cho nỗi lòng của người phụ nữ tài hoa, cô đơn nhưng vẫn ung dung, kiêu hãnh giữa cuộc đời. Đó cũng chính là thông điệp mà Anh Thơ muốn gửi gắm: một sự trân trọng dành cho người đi trước, một sự nối tiếp mạch nguồn văn chương, để thơ ca mãi còn vang vọng cùng thời gian…
*
Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ
Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.
Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.
Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:
“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)
Viên Ngọc Quý.