Chiếc gối
Ngày em khu Bốn mới ra đây,
Trăng mật đôi ta Việt Bắc nầy,
Em có đem theo ra chiếc gối
Tượng trưng tổ ấm chúng ta xây.
Vải vừa, bông gọn, gối xinh xinh,
Âu yếm em thêu một chữ Mình.
Chiếc gối tượng trưng nên có một,
Đổi trao, nhường nhịn giữa em, anh.
Anh là cán bộ, em y tá,
Công tác hai nơi chẳng tiện gần.
Thỉnh thoảng em về mừng họp mặt,
Ra đi sương sớm ướt đầm chân.
Gối chung em biết đem hay để?
Cách suối dăm con, lại mấy rừng.
Lắm lúc nhớ nhau nhìn chỉ thấy
Những cây cùng lá, nứa cùng măng.
Đôi ta đôi lứa tuổi xuân xanh,
Quân địch gây nên hoạ chiến tranh,
Chúng rắc tai ương, gây cách trở,
Cắt ngang hạnh phúc, rẽ gia đình.
Căm thù tình lạ thêm sâu sắc.
Gối chiếc ta phong lại, để dành.
Kháng chiến có ai dùng đến gối,
Miễn sao sinh hoạt gọn và nhanh.
Người đi công tác gối ba lô;
Sách vở thân yêu: gối học trò;
Bộ đội giết thù, yêu gối súng;
Nhân viên thường lúc gối hồ sơ.
Áo quần xếp lại chồng nên gối,
Bao gạo tròn êm áp má nồng.
Mưa gió đã rèn trên mái tóc,
Không ai nghĩ chuyện gối mềm bông.
Ngày đi mệt nhọc, tối thêm ngon,
Gối đất nằm sương, giấc vẫn tròn.
Chỉ sợ cụ Hồ đêm ít ngủ
Nghĩ trăm nghìn việc, gối giang sơn.
Dù trong bom đạn gieo nguy hiểm,
Vui chuyện đôi ta vẫn hẹn thường
Đến lúc hoà bình vang chiến thắng,
Sẽ may hoà mục gối uyên ương.
Hoà bình nay lại với nhân dân;
Công tác đôi ta cũng được gần.
Gối cũ lấy ra nhìn tựa mới,
Trong bông như sắp nở hoa xuân.
Em đem kim, chỉ, vải, bông ra,
Chiếc gối may thêm gợi cửa nhà,
Gợi khói ban chiều, đèn giữa tối,
Gợi câu trò chuyện, tiếng hoà ca.
Gối trên đôi gối của tình yêu,
Ta nhớ bao nhiêu dốc với đèo,
Ta nhớ gập ghềnh đường cách mạng,
Trước và sau nữa hãy deo neo.
Mắt ta tuy ngủ, lòng ta thức.
Gối của em, anh cộm, chẳng mềm:
Gối dẫu nhồi tơ hay bọc gấm,
Còn quân hiếu chiến, gối chưa êm!
Ta canh, ta giữ lấy Hoà bình.
Giữ lấy non sông, giữ lấy tình!
Giữ gối sum vầy, và phấn đấu
Cho nghìn gối lẻ được xây quanh.
9-1954
*
Chiếc gối – Biểu tượng của tình yêu và khát vọng hòa bình
Khi cuộc kháng chiến còn đang khốc liệt, hạnh phúc lứa đôi cũng bị chiến tranh chia cắt. Nhưng giữa những gian lao, người ta vẫn giữ gìn những kỷ vật của tình yêu, như một lời hẹn ước về ngày mai đoàn tụ. Bài thơ Chiếc gối của Xuân Diệu không chỉ kể về câu chuyện của đôi vợ chồng xa cách mà còn khắc họa sâu sắc tinh thần kiên cường và khát vọng hòa bình của con người trong thời chiến.
Chiếc gối – Tổ ấm giữa những ngày xa cách
Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, hình ảnh chiếc gối đã hiện lên như một biểu tượng của tổ ấm gia đình:
“Ngày em khu Bốn mới ra đây,
Trăng mật đôi ta Việt Bắc này,
Em có đem theo ra chiếc gối
Tượng trưng tổ ấm chúng ta xây.”
Chiếc gối nhỏ bé, nhưng lại chứa đựng biết bao yêu thương, bao hy vọng về một mái nhà hạnh phúc. Nó không chỉ là một vật dụng bình thường mà còn là chứng nhân cho tình yêu của hai người.
Nhưng chiến tranh không cho phép những đôi lứa được ở gần nhau. Người chồng là cán bộ, người vợ là y tá, mỗi người một nơi, để lại chiếc gối chơ vơ, cũng như những nỗi nhớ không nguôi.
Những năm tháng chiến tranh – Gối mềm không còn cần thiết
Giữa cuộc kháng chiến, sự xa cách không chỉ là nỗi buồn mà còn là động lực để căm thù giặc sâu sắc hơn:
“Căm thù tình lạ thêm sâu sắc.
Gối chiếc ta phong lại, để dành.
Kháng chiến có ai dùng đến gối,
Miễn sao sinh hoạt gọn và nhanh.”
Giờ đây, người ta không cần gối mềm để yên giấc. Những người chiến sĩ, những người dân kháng chiến đã quen với việc dùng ba lô làm gối, lấy hồ sơ kê đầu, hay thậm chí chỉ cần xếp áo quần cũng thành nơi tựa tạm.
Chiếc gối êm ái giờ đây chỉ là một ước mơ xa xỉ, bởi trong thời loạn lạc, sự thoải mái cá nhân không còn quan trọng. Tất cả đều dành trọn tâm trí cho cuộc chiến giành lại hòa bình.
Chiếc gối và khát vọng hòa bình
Chiếc gối không chỉ là biểu tượng của tình yêu mà còn là biểu tượng của một cuộc sống thanh bình. Và khi đất nước hòa bình, chiếc gối ấy mới được lấy ra, mới có cơ hội trở về đúng ý nghĩa của nó:
“Hoà bình nay lại với nhân dân;
Công tác đôi ta cũng được gần.
Gối cũ lấy ra nhìn tựa mới,
Trong bông như sắp nở hoa xuân.”
Niềm hạnh phúc không chỉ đến từ việc được đoàn tụ mà còn đến từ sự trân trọng những gì đã trải qua. Chiếc gối không đơn thuần chỉ là một vật vô tri, mà nó gợi nhớ những ngày tháng gian lao, những bước chân gập ghềnh trên con đường cách mạng.
Nhưng, ngay cả khi đã có hòa bình, người chiến sĩ vẫn chưa thể ngủ yên. Vì hòa bình vẫn cần được bảo vệ:
“Mắt ta tuy ngủ, lòng ta thức.
Gối của em, anh cộm, chẳng mềm:
Gối dẫu nhồi tơ hay bọc gấm,
Còn quân hiếu chiến, gối chưa êm!”
Dù đã có hòa bình, nhưng vẫn còn những thế lực thù địch, những kẻ hiếu chiến luôn rình rập. Chiếc gối của người chiến sĩ vẫn chưa thể thật sự êm ái, bởi nhiệm vụ giữ gìn hòa bình còn đó, còn phải tiếp tục chiến đấu để không một ai phải rơi vào cảnh chia ly như trước nữa.
Lời kết
Bài thơ Chiếc gối không chỉ là một bài thơ tình cảm mà còn là một bài ca về lòng yêu nước, về khát vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam. Chiếc gối nhỏ bé, nhưng lại mang trong mình cả một câu chuyện lớn về tình yêu, sự hy sinh, và ước mơ về một ngày không còn chiến tranh.
Xuân Diệu đã khéo léo dùng hình ảnh chiếc gối để truyền tải một thông điệp mạnh mẽ: hòa bình không chỉ là sự ngừng tiếng súng, mà còn là sự yên bình trong từng mái nhà, là giấc ngủ trọn vẹn trên những chiếc gối mềm, không còn nỗi lo chiến tranh. Và để có được điều đó, mỗi con người vẫn phải tiếp tục gìn giữ, bảo vệ nền hòa bình ấy bằng tất cả trách nhiệm và tình yêu của mình.
*
Xuân Diệu – “Ông hoàng thơ tình” của văn học Việt Nam
Xuân Diệu (1916–1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với phong cách sáng tác độc đáo, giàu cảm xúc và khát vọng yêu đời mãnh liệt, ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bao thế hệ độc giả.
Sinh ra tại Hà Tĩnh nhưng lớn lên ở Quy Nhơn, Bình Định, Xuân Diệu sớm bộc lộ niềm đam mê văn chương. Ông là gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, mang đến một luồng sinh khí mới cho thi ca Việt Nam. Những tác phẩm như Thơ thơ (1938) hay Gửi hương cho gió (1945) thể hiện rõ nét giọng điệu sôi nổi, táo bạo, chan chứa tình yêu và khát khao tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
Sau năm 1945, Xuân Diệu chuyển hướng sáng tác, hòa mình vào dòng chảy cách mạng, ca ngợi quê hương, đất nước và con người lao động. Dù ở giai đoạn nào, thơ ông vẫn giữ nguyên vẹn sự say mê và rung động sâu sắc. Những tác phẩm như Riêng chung (1960) hay Hai đợt sóng (1967) tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên thi đàn.
Không chỉ là nhà thơ, Xuân Diệu còn là nhà văn, nhà phê bình có ảnh hưởng lớn. Năm 1996, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, ghi nhận những đóng góp to lớn của mình.
Xuân Diệu vẫn mãi là biểu tượng của thơ tình Việt Nam, là tiếng nói tha thiết của một tâm hồn luôn khát khao yêu và sống trọn vẹn từng khoảnh khắc:
“Hãy tận hưởng ngày giờ đang thở,
Và yêu đời, hãy sống mạnh hơn tôi.”
Viên Ngọc Quý