Chiều mai em đến ngâm thơ
Có em, vui quá hoá cuồng,
Không em, vắng vẻ, quá buồn, buồn tênh!
Thắp đèn lấy bút nằm biên,
Mấy câu tâm sự đảo điên thơ buồn!
Thơ rằng: giàu ức vạn muôn,
Ai đem vàng đổi cái buồn cũng không!
Buồn ôm chiếc gối sầu Đông,
Có Yêu, có Nhớ, có Mong, mới Buồn!
Nhớ thương khép bốn cánh tường,
Chiếu đơn một mảnh, không giường, không chăn!
Góc trời hé nửa mảnh trăng,
Bóng ta một nửa trong căn phố tàn!
Mảnh trăng gió cuốn mờ tan,
Buồn ta bão tố miên man, buồn hoài!
Buồn mơ muôn ức vạn ngày,
Buồn ghi muôn ức vạn bài tương tư!
Chiều mai em đến ngâm thơ!
1960
*
Chiều Mai Em Đến Ngâm Thơ – Khúc Tương Tư Của Kẻ Độc Hành
1. Khi Vắng Em, Nỗi Buồn Trở Thành Bầu Bạn
Có những nỗi buồn mang màu sắc của sự cô đơn, có những nỗi buồn dường như kéo dài vô tận, chỉ khi có người thương đến mới có thể tạm nguôi ngoai. Bài thơ Chiều mai em đến ngâm thơ của Nguyễn Vỹ chính là một bản độc hành như thế – một bài thơ chứa đựng cả yêu, nhớ, mong và buồn, những trạng thái tâm hồn khi vắng bóng một người.
Từ những câu đầu tiên, tác giả đã tạo ra hai thái cực rõ rệt:
“Có em, vui quá hoá cuồng,
Không em, vắng vẻ, quá buồn, buồn tênh!”
Niềm vui khi có em không chỉ đơn thuần là một niềm hạnh phúc, mà là vui quá hóa cuồng, một niềm hạnh phúc cuồng nhiệt, gần như mất kiểm soát. Nhưng khi không có em, nỗi buồn bủa vây, không chỉ là buồn, mà là quá buồn, buồn tênh! – nỗi buồn đến mức trống rỗng, đến mức không gì có thể khỏa lấp.
Trong khoảnh khắc ấy, chỉ còn lại người thơ với ngọn đèn leo lắt, với trang giấy trắng để trút hết tâm sự.
2. Buồn – Một Loại Của Cải Không Gì Có Thể Đổi Chác
Dẫu trong cô đơn, người thơ vẫn có một thứ không ai có thể lấy đi, cũng không ai có thể mua được:
“Thơ rằng: giàu ức vạn muôn,
Ai đem vàng đổi cái buồn cũng không!”
Nỗi buồn ấy không giống như một gánh nặng, mà lại là một tài sản vô giá – một thứ không thể bị đánh đổi dù là bằng cả kho vàng. Vì sao vậy? Vì trong nỗi buồn ấy có yêu, có nhớ, có mong, có cả những rung động sâu sắc nhất của một trái tim đang khắc khoải.
3. Không Gian Của Kẻ Độc Hành
“Nhớ thương khép bốn cánh tường,
Chiếu đơn một mảnh, không giường, không chăn!”
Không gian của tác giả cũng chính là không gian của những kẻ độc hành trong tình yêu – bốn bức tường khép kín, một tấm chiếu đơn côi, không giường, không chăn. Căn phòng ấy chẳng khác nào một cõi lòng hoang vắng, nơi duy nhất có thể làm bầu bạn chính là ánh trăng ngoài song cửa.
Nhưng ngay cả ánh trăng cũng bấp bênh:
“Góc trời hé nửa mảnh trăng,
Bóng ta một nửa trong căn phố tàn!”
Một hình ảnh quá đỗi cô độc: mảnh trăng không tròn vẹn, bóng người cũng chỉ là một nửa. Nỗi buồn dường như lan tỏa khắp không gian, hòa vào cả trời đất, trở thành một cơn bão tố không có điểm dừng.
4. Khi Nỗi Buồn Trở Thành Vĩnh Cửu
“Buồn mơ muôn ức vạn ngày,
Buồn ghi muôn ức vạn bài tương tư!”
Có những nỗi buồn chỉ là nhất thời, nhưng có những nỗi buồn kéo dài vô tận. Nỗi buồn trong thơ Nguyễn Vỹ không chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc, mà nó đã trở thành một dòng chảy, kéo dài đến muôn ức vạn ngày, hóa thành muôn ức vạn bài tương tư.
Đây không còn là một nỗi buồn thông thường nữa, mà là một nỗi buồn đã hóa thành một phần của cuộc đời, của tâm hồn, của chính con người tác giả.
5. Hy Vọng Mong Manh Trong Một Câu Thơ
Thế nhưng, sau tất cả những bi thương ấy, bài thơ khép lại bằng một câu mang đầy hy vọng:
“Chiều mai em đến ngâm thơ!”
Sau tất cả những đêm dài buồn bã, có lẽ ngày mai em sẽ đến. Và khi em đến, những câu thơ buồn sẽ được em cất lên, không phải để nỗi buồn thêm nặng nề, mà để nó được san sẻ, được giãi bày, được vơi đi phần nào.
Không biết rằng em có thực sự đến hay không, nhưng chỉ cần nghĩ đến điều đó thôi, tác giả đã có một niềm an ủi trong lòng. Một niềm hy vọng dù mong manh nhưng cũng đủ để níu giữ một trái tim đang hoang hoải giữa những cơn bão lòng.
6. “Chiều Mai Em Đến Ngâm Thơ” – Một Bản Tình Ca Của Cô Đơn
Bài thơ Chiều mai em đến ngâm thơ là một bản tình ca đầy cô đơn, nhưng cũng đầy sâu sắc. Nó là tiếng lòng của một người đã yêu quá nhiều, nhớ quá nhiều, mong chờ quá nhiều, để rồi chìm đắm trong nỗi buồn không đáy.
Thế nhưng, nỗi buồn trong thơ Nguyễn Vỹ không bi lụy, mà nó mang một nét đẹp riêng – một vẻ đẹp của sự chân thành, của những rung động thực sự. Và đâu đó, giữa những câu thơ đầy u hoài, vẫn le lói một tia hy vọng, rằng chiều mai em sẽ đến, rằng nỗi buồn rồi cũng sẽ có người cùng san sẻ.
Có lẽ đó cũng chính là điều mà ai trong chúng ta cũng từng trải qua – cái cảm giác chờ đợi một ai đó giữa những ngày cô đơn nhất của đời mình…
*
Nguyễn Vỹ – Nhà thơ, nhà báo kiên định với lý tưởng
Nguyễn Vỹ (1912 – 1971) là một nhà thơ, nhà báo nổi bật trong nền văn học Việt Nam thời tiền chiến. Ông không chỉ được biết đến qua hai bài thơ gây tiếng vang: Gởi Trương Tửu và Sương rơi, mà còn ghi dấu ấn với nhiều tác phẩm đa dạng từ thơ ca, tiểu thuyết đến biên khảo.
Sinh tại Quảng Ngãi, Nguyễn Vỹ sớm bộc lộ tư tưởng yêu nước, từng nhiều lần bị bắt giam vì các hoạt động chống thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ông cũng là người sáng lập nhiều tờ báo như Việt – Pháp, Tổ quốc, Dân chủ, Dân ta, trong đó tạp chí Phổ Thông được đánh giá cao về văn học và nghệ thuật.
Thơ Nguyễn Vỹ mang phong cách riêng biệt, thể nghiệm nhiều lối viết mới. Dù từng bị phê phán, nhưng ông vẫn kiên trì theo đuổi con đường sáng tạo, để lại dấu ấn với những tác phẩm thể hiện nỗi trăn trở về xã hội và vận mệnh con người.
Ông qua đời năm 1971 do tai nạn giao thông, khép lại cuộc đời một người cầm bút nhiệt huyết, dấn thân không ngừng vì văn chương và tư tưởng.
Viên Ngọc Quý.