Cảm nhận bài thơ: Chợ vùng mới giải phóng – Anh Thơ

Chợ vùng mới giải phóng

 

Cây trơ ngọn cụt nửa chừng.
Gốc đa hay góc mít? từng bóng xanh.

Mái nghiêng kèo sắt chênh vênh.
Cỏ len bom đạn phủ xanh chiến trường.

Chợ vào, chợ những người thương.
Áo xanh bộ đội, áo hường dân quân.

Bé em nhảy nóc xe tăng
Đùa vui cho bõ ở hầm khát khao.

Chợ nghèo hái má làm rau.
Cau khô hàng mẹ miệng trầu vẫn tươi.

Nén hương thơm nức dòng đời
Bố mừng giải phóng nhớ ai nén trầm.

Chốt về du kích chen chân
Thanh thanh nón lá tay cầm thiết tha.

Chợ ta họp giữa quê ta.
Trùm lên đồ nải nắng xoà âm thanh.


Chợ Của, xuân 1973

*

Chợ Vùng Mới Giải Phóng – Nhịp Thở Của Cuộc Sống Tái Sinh

Có lẽ không gì thể hiện rõ hơn sự hồi sinh của một vùng đất sau chiến tranh bằng hình ảnh của một phiên chợ. Bởi chợ không chỉ là nơi trao đổi hàng hóa, mà còn là nơi kết nối con người, nơi niềm vui được sẻ chia và cuộc sống tiếp tục chảy trôi. Trong bài thơ Chợ vùng mới giải phóng, nhà thơ Anh Thơ đã khắc họa một khung cảnh vừa xơ xác vì tàn tích chiến tranh, vừa rộn ràng bởi nhịp sống mới đang hồi sinh mạnh mẽ.

Những Dấu Vết Chiến Tranh Còn Đọng Lại

Bước vào chợ, người ta vẫn còn thấy những dấu vết của chiến tranh, những vết thương mà bom đạn để lại trên quê hương:

*”Cây trơ ngọn cụt nửa chừng.
Gốc đa hay góc mít? từng bóng xanh.

Mái nghiêng kèo sắt chênh vênh.
Cỏ len bom đạn phủ xanh chiến trường.”*

Những cây cổ thụ vốn từng là điểm tựa cho đời sống làng quê nay chỉ còn trơ trọi những ngọn cụt. Những mái nhà tạm bợ, những khoảng đất bị bom đạn cày xới giờ chỉ còn cỏ xanh phủ lấp. Khung cảnh ấy gợi lên sự xót xa, nhưng không phải là sự tàn lụi, mà là dấu hiệu của một sự tái sinh.

Chợ Họp Giữa Yêu Thương Và Gặp Gỡ

Giữa không gian vẫn còn dấu tích chiến tranh ấy, phiên chợ họp lại đông vui, náo nhiệt. Những con người của hai thế giới – chiến tranh và hòa bình – cùng tụ họp trong một bức tranh giao thoa đầy xúc động:

“Chợ vào, chợ những người thương.
Áo xanh bộ đội, áo hường dân quân.

Bé em nhảy nóc xe tăng
Đùa vui cho bõ ở hầm khát khao.”

Những người lính vẫn trong màu áo xanh chiến trận, nhưng hôm nay họ không cầm vũ khí, mà hòa vào dòng người nơi chợ quê. Những cô dân quân trong tà áo hồng, những đứa trẻ từng phải chui lủi trong hầm trú ẩn nay thoải mái nô đùa trên nóc xe tăng. Đó là hình ảnh đẹp của một sự đổi thay, khi chiến tranh lùi xa, nhường chỗ cho niềm vui và sự bình yên.

Những Món Hàng Giản Dị Và Tình Người Đong Đầy

Phiên chợ mới giải phóng không có những mặt hàng xa hoa, nhưng lại chất chứa cả một trời ấm áp của tình người:

“Chợ nghèo hái má làm rau.
Cau khô hàng mẹ miệng trầu vẫn tươi.

Nén hương thơm nức dòng đời
Bố mừng giải phóng nhớ ai nén trầm.”

Mẹ vẫn têm miếng trầu dù cau đã khô, bố cẩn thận đốt một nén nhang thơm để tưởng nhớ người đã khuất. Những hình ảnh ấy không chỉ khắc họa đời sống thường nhật, mà còn gợi lên những nét đẹp truyền thống và lòng biết ơn đối với những hy sinh trong cuộc chiến đấu giành tự do.

Niềm Tin Vào Tương Lai Tươi Sáng

Hình ảnh cuối bài thơ là những con người hối hả, tất bật trong công việc nhưng vẫn ánh lên niềm tin và sự ấm áp:

“Chốt về du kích chen chân
Thanh thanh nón lá tay cầm thiết tha.

Chợ ta họp giữa quê ta.
Trùm lên đồ nải nắng xoà âm thanh.”

Chợ không chỉ là nơi mua bán, mà còn là nơi giao hòa giữa những con người đã đi qua những năm tháng chiến tranh. Ở đó, có những người du kích trở về, có những nón lá nghiêng nghiêng chở che niềm hy vọng. Phiên chợ diễn ra dưới ánh nắng chan hòa, dưới những âm thanh quen thuộc của đời sống thường ngày – một minh chứng rằng quê hương đã bước sang trang mới, rộn ràng và tràn đầy sức sống.

Lời Kết

Bài thơ Chợ vùng mới giải phóng không chỉ đơn thuần mô tả một phiên chợ, mà còn khắc họa một giai đoạn lịch sử của đất nước – khi chiến tranh vừa đi qua và hòa bình đang dần trở lại. Đó là sự hòa quyện giữa những đau thương cũ và những niềm vui mới, giữa những mất mát và sự hồi sinh. Phiên chợ ấy chính là biểu tượng của sự kiên cường, của tinh thần vượt lên nghịch cảnh, và quan trọng nhất, là biểu tượng của niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn, nơi cuộc sống bình dị sẽ lại đơm hoa kết trái trên chính mảnh đất quê hương.

*

Nhà thơ Anh Thơ – Người vẽ tranh quê bằng thơ

Anh Thơ (1918 – 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, là một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Bà nổi tiếng từ năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn, mở ra một hướng đi riêng trong phong trào Thơ mới: thơ về nông thôn, thiên nhiên Bắc Bộ với những hình ảnh bình dị, đầy chất trữ tình.

Sinh ra trong một gia đình Nho học, cuộc sống kín cổng cao tường đã hun đúc trong bà một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao tự do. Những câu thơ của Anh Thơ không chỉ vẽ nên bức tranh làng quê thanh bình mà còn phản ánh nỗi niềm sâu lắng của người phụ nữ trước những ràng buộc xã hội.

Sau Cách mạng tháng Tám, bà tham gia Việt Minh, giữ nhiều trọng trách trong Hội Phụ nữ, tiếp tục sáng tác thơ ca ngợi người phụ nữ hậu phương, vẻ đẹp cuộc sống mới và tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, từng giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội.

Với những đóng góp lớn cho văn học, Anh Thơ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Những vần thơ của bà vẫn mãi ngân vang, gợi lên trong lòng người đọc tình yêu quê hương tha thiết:

“Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân)

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *