Cảm nhận bài thơ: Chùa Hương – Nguyễn Nhược Pháp

Chùa Hương

Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa.

Hôm nay đi Chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương.
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương.

Khăn nhỏ, đuôi gà cao,
Em đeo dải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới,
Tay cầm nón quai thao.

Me cười: “Thầy nó trông!
Chân đi đôi dép cong,
Con tôi xinh xinh quá!
Bao giờ cô lấy chồng?”

– Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm
Nhờ mối mai đưa tiếng,
Khen tươi như trăng rằm.

Nhưng em chưa lấy ai,
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm,
(Ý đợi người tài trai).

Em đi cùng với me.
Me em ngồi cáng tre,
Thầy theo sau cưỡi ngựa,
Thắt lưng dài đỏ hoe.

Thầy me ra đi đò,
Thuyền mấp mênh bên bờ.
Em nhìn sông nước chảy
Đưa cánh buồm lô nhô.

Mơ xa lại nghĩ gần,
Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước,
Em thấy một văn nhân.

Người đâu thanh lạ thường!
Tướng mạo trông phi thường.
Lưng cao dài, trán rộng.
Hỏi ai nhìn không thương?

Chàng ngồi bên me em,
Me hỏi chuyện làm quen:
“Thưa thầy đi chùa ạ?
Thuyền đông, giời ôi chen!”

Chàng thưa: “Vâng, thuyền đông!”
Rồi ngắm giời mênh mông,
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.

Dòng sông nước đục lờ.
Ngâm nga chàng đọc thơ.
Thầy khen: “Hay! Hay quá!”
Em nghe rồi ngẩn ngơ.

Thuyền đi. Bến Đục qua.
Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói:
“Nam vô A-di-đà!”

Réo rắt suối đưa quanh,
Ven bờ, ngọn núi xanh,
Nhịp cầu xa nho nhỏ:
Cảnh đẹp gần như tranh.

Sau núi Oản, Gà, Xôi,
Bao nhiêu là khỉ ngồi.
Tới núi con Voi phục,
Có đủ cả đầu đuôi.

Chùa lấp sau rừng cây.
(Thuyền ta đi một ngày)
Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn mày.

Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu.

Thầy me đến điện thờ,
Trầm hương khói toả mờ.
Hương như là sao lạc,
Lớp sóng người lô nhô.

Chen vào thật lắm công.
Thầy me em lễ xong,
Quay về nhà ngang bảo:
“Mai mới vào chùa trong.”

Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu:
“Mai ta vào chùa trong!”

Đêm hôm ấy em mừng!
Mùi trầm hương bay lừng.
Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.

Em mơ, em yêu đời!
Mơ nhiều… Viết thế thôi!
Kẻo ai mà xem thấy,
Nhìn em đến nực cười!

Em chưa tỉnh giấc nồng,
Mây núi đã pha hồng.
Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong.

Đường mây đá cheo veo,
Hoa đỏ, tím, vàng leo.
Vì thương me quá mệt,
Săn sóc chàng đi theo.

Me bảo: “Đường còn lâu,
Cứ vừa đi ta cầu
Quan Thế Âm bồ tát
Là tha hồ đi mau!”

Em ư? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi mau.
Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu).

Khi qua chùa Giải Oan,
Trông thấy bức tường ngang,
Chàng đưa tay, lẹ bút
Thảo bài thơ liên hoàn.

Tấm tắc thầy khen: “Hay!
Chữ đẹp như rồng bay.”
(Bài thơ này em nhớ,
Nên chả chép vào đây).

Ô! Chùa trong đây rồi!
Động thẳm bóng xanh ngời.
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơi.

Me vui mừng hả hê:
“Tặc! Con đường mà ghê!”
Thầy kêu: “Mau lên nhé!
Chiều hôm nay ta về.”

Em nghe bỗng rụng rời
Nhìn ai luống nghẹn lời!
Giờ vui đời có vậy,
Thoảng ngày vui qua rồi!

Làn gió thổi hây hây,
Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở!
Chàng ôi, chàng có hay?

Đường đây kia lên giời,
Ta bước tựa vai cười.
Yêu nhau, yêu nhau mãi!
Đi, ta đi, chàng ôi!

Ngun ngút khói hương vàng,
Say trong giấc mơ màng
Em cầu xin Giời Phật
Sao cho em lấy chàng.

Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau, vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều. Lấy nhau rồi là hết chuyện.

8-1934

*

Chùa Hương – Một Giấc Mơ Dịu Dàng và Mong Manh

Có những bài thơ không chỉ là thơ, mà còn là một giấc mơ, một mảng ký ức tinh khôi của tuổi trẻ. Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp chính là một giấc mơ như thế – trong trẻo, hồn nhiên, đầy chất thơ và cũng man mác một nỗi buồn thoáng qua. Đó là câu chuyện của một cô bé mười lăm tuổi, lần đầu tiên theo cha mẹ trẩy hội Chùa Hương, nhưng chuyến đi ấy không chỉ đơn thuần là một cuộc hành hương, mà còn là cuộc gặp gỡ đầu đời với tình yêu, với những rung động ngọt ngào và cũng đầy tiếc nuối.

Bức tranh thanh xuân tươi sáng

Bài thơ mở ra như một bức tranh tràn đầy màu sắc:

“Hôm nay đi Chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương.
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương.”

Từ những câu thơ đầu tiên, ta đã thấy hiện lên một buổi sáng tinh khôi, nơi làn sương mỏng còn vương trên cỏ, nơi cô bé háo hức chuẩn bị cho chuyến đi trong niềm vui hồn nhiên. Cô bé ấy mới mười lăm, trong lòng còn chưa hiểu hết những gì đang chờ đợi phía trước. Cô soi gương, buộc tóc, mặc bộ quần áo đẹp nhất, để rồi được mẹ trêu đùa:

“Con tôi xinh xinh quá!
Bao giờ cô lấy chồng?”

Lời nói đùa của mẹ như một dự báo vô tình cho những rung động đầu đời sắp đến.

Cuộc gặp gỡ định mệnh

Trẩy hội chùa không chỉ là một hành trình thể xác, mà còn là hành trình của tâm hồn. Cô bé ấy, giữa dòng người tấp nập, đã bất ngờ chạm phải một ánh nhìn khiến trái tim lần đầu biết rung động:

“Mơ xa lại nghĩ gần,
Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước,
Em thấy một văn nhân.”

Chàng trai ấy xuất hiện như một hình ảnh đầy lãng mạn, một “văn nhân” với vẻ ngoài thanh tú và phong thái đĩnh đạc. Lần đầu tiên, cô bé thấy tim mình đập nhanh hơn khi nghe những vần thơ vang lên từ chàng:

“Ngâm nga chàng đọc thơ.
Thầy khen: ‘Hay! Hay quá!’
Em nghe rồi ngẩn ngơ.”

Khoảnh khắc ấy, dù ngắn ngủi, nhưng đã để lại trong lòng cô bé một dấu ấn không thể phai mờ.

Tình yêu chớm nở trong tiếng chuông chùa

Cả chuyến đi, cô bé ấy luôn có một nỗi bồi hồi lạ lẫm, không dám đi nhanh vì sợ chàng trai nghĩ mình “hấp tấp”, không dám tỏ bày nhưng lại luôn khắc khoải mong chờ. Đến khi lên chùa, trong khói hương mờ ảo, giữa những lời kinh cầu, cô bé không cầu Phật ban phước lành, mà chỉ cầu duy nhất một điều:

“Em cầu xin Giời Phật
Sao cho em lấy chàng.”

Lời nguyện ước ấy không phải là một điều xa vời hay vụ lợi, mà chỉ là ước mong giản đơn của một trái tim non trẻ lần đầu biết yêu.

Khoảnh khắc đẹp nhất cũng là khoảnh khắc mong manh nhất

Nhưng rồi, như một quy luật tất yếu của thời gian, giấc mơ nào rồi cũng đến lúc phải tỉnh. Khi chuyến hành hương kết thúc, khi gia đình chuẩn bị trở về, cô bé chợt nhận ra rằng những khoảnh khắc đẹp đẽ ấy chỉ là thoáng qua.

“Giờ vui đời có vậy,
Thoảng ngày vui qua rồi!”

Chỉ trong một câu thơ, ta thấy hết cả sự tiếc nuối của một trái tim đang lần đầu biết yêu. Gió vẫn thổi, nhưng giờ đây không còn là cơn gió mát lành của buổi sáng hôm ấy, mà là cơn gió cuốn đi những dư âm ngọt ngào của mối tình chưa kịp thành lời.

Lời nhắn gửi từ một giấc mơ

Bài thơ khép lại bằng một cái kết hóm hỉnh nhưng cũng đầy ý nghĩa:

“Thiên ký sự đến đây là hết. Tôi tin rồi hai người lấy nhau,
Vì không lấy được nhau thì cô bé còn viết nhiều.
Lấy nhau rồi là hết chuyện.”

Nguyễn Nhược Pháp không chọn một cái kết bi lụy, mà để lại một nụ cười nhẹ nhàng. Đằng sau lời văn hài hước ấy là một triết lý rất sâu sắc: những rung động đầu đời, những cuộc gặp gỡ thoáng qua nhưng in sâu trong tâm trí, những giấc mơ mong manh nhưng không thể nào quên – tất cả chính là một phần của thanh xuân, một phần của tuổi trẻ mà ai cũng từng trải qua.

Lời kết

Chùa Hương không chỉ là một bài thơ về một chuyến đi, mà còn là một khúc nhạc về tình yêu, về những cảm xúc đầu đời hồn nhiên, trong sáng nhưng cũng mong manh đến nao lòng. Cô bé trong bài thơ, cũng như chính tác giả Nguyễn Nhược Pháp, đã có một mối tình thầm lặng nhưng đẹp đẽ, một giấc mơ chưa bao giờ thành hiện thực. Và có lẽ, chính vì nó chưa bao giờ thành hiện thực, nên nó mới đẹp đến thế – như một áng mây lững lờ trên bầu trời ký ức, mãi mãi không tan đi.

*

Nguyễn Nhược Pháp – Nhà thơ trữ tình tài hoa

Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) là một nhà thơ trữ tình của Việt Nam, được biết đến với phong cách thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng vẫn thấm đượm chất trữ tình và tinh thần dân tộc. Ông là con trai của học giả, nhà báo, dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh – người có nhiều đóng góp quan trọng trong việc truyền bá chữ Quốc ngữ và văn hóa phương Tây vào Việt Nam.

Ngay từ nhỏ, Nguyễn Nhược Pháp đã bộc lộ năng khiếu văn chương. Ông theo học tại Trường Trung học Albert Sarraut, sau đó tiếp tục học tại Trường Cao đẳng Luật và Pháp chính. Bên cạnh việc học, ông còn tham gia viết báo và sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch bản.

Năm 1935, tập thơ “Ngày xưa” của ông ra đời, mang đến một làn gió mới cho thi đàn Việt Nam. Các bài thơ như Chùa Hương, Tay Ngà, Sơn Tinh Thủy Tinh đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả nhờ lối thơ giản dị, trong sáng, kết hợp giữa chất dân gian và hơi thở hiện đại. Ngoài thơ, ông còn viết kịch, tiêu biểu là vở Người học vẽ (1936).

Cuộc đời Nguyễn Nhược Pháp ngắn ngủi, ông qua đời vì bệnh lao hạch khi mới 24 tuổi. Dù vậy, thơ ông vẫn để lại dấu ấn đặc biệt trong nền văn học Việt Nam, được đánh giá là mang nét duyên dáng riêng biệt, hiền lành và thanh tao.

*

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *