Cảm nhận bài thơ: Chuyện tiếng sáo diều – Nguyễn Bính

Chuyện tiếng sáo diều

 

Ngày còn để chỏm chăn bê,
Xin tre hàng xóm, mải mê vót diều.
Vòi cha gọt sáo cho kêu,
Phất thơm nước cậy, xe đều dây gai.
(Thâu đêm tiếng sáo ngân dài,
Vi vu tiếng vọng muôn đời quê ta).
Mải chơi, tối mịt về nhà,
Tây lùng cộng sản, bắt cha mất rồi!
Bê non bán chạy cho người,
Tôi buồn, tôi chả buồn chơi thả diều.
Đầu làng tiếng sáo ai kêu,
Tưởng đâu tiếng nấc trẻ nghèo thương cha.

Người đi Côn Đảo, Sơn La,
Có nghe tiếng sáo quê nhà nuối theo?
Chăn bê đổi gạo từng chiều,
Thương cha, đánh gióng cho diều lên cao.

Cha về, tóc đã phai màu,
Đình làng mái đỏ cờ sao ngời ngời.
Chiều thu diều đóng sáo đôi,
Thênh thênh gió hát giữa trời tự do.

Lúa chiêm chắc hạt hai mùa,
Súng thù bỗng nổ, đồn thù lại xây.
Nửa chiều hạ sáo, cuốn dây,
Con bê gục giữa luống cày dở dang.
Tôi xin đi Vệ quốc đoàn,
Đất tề cha ở, bám làng bám dân.

Những chiều gió ngược, hành quân,
Réo ngang đầu súng tiếng ngân sáo diều.
Bốn bề ổ cọp hang beo,
Làng tôi chắc chả chơi diều nữa đâu.

Hoà bình đẹp cánh bồ câu,
Tóc cha tôi bạc như màu trời xanh.
Cờ bay lại đỏ mái đình,
Diều nâng sáo rót gió lành chơi vơi.

Kịp ngày cải cách quê tôi,
Nỗi mừng càng lớn, niềm vui càng đầy.
Bỗng mà oán mượn, thù vay,
Cha tôi phải sống những ngày tối tăm.
Bụi đầy miệng sáo nín câm,
Dây treo chuột cắn, khung nằm mối xông.

Quê giờ tiếng sáo lại trong,
Trăng sao lại tỏ, ruộng đồng lại tươi.
Cha tôi lại được phục hồi,
Lại mê công tác, lại chơi thả diều.
Lại ngồi gọt sáo cho kêu,
Đẵn cây tre đực, làm diều ba gian.
Diều kêu tiếng sắt tiếng vàng,
Thâu đêm réo rắt, cả làng vui chung…

Tôi theo đơn vị biên phòng,
Hôm qua mừng được mấy dòng thư quê.
Đào cao đổi gác, ra về,
Nghe chim rừng hót, tưởng nghe sáo diều.


Tháng 9-1957

*

Tiếng sáo diều – khúc vọng quê hương và đời người

Có những thanh âm không bao giờ cũ. Như tiếng sáo diều vi vu chiều gió, vắt qua bầu trời tuổi thơ, lặng lẽ ngân vang trên những cánh đồng quê và lẩn quất mãi trong tâm hồn người lớn lên từ gian khổ. Với bài thơ “Chuyện tiếng sáo diều”, Nguyễn Bính đã dệt nên một bản trường ca đầy cảm xúc, sâu sắc và thấm đẫm tinh thần quê hương, dân tộc – nơi tiếng sáo diều không chỉ là trò chơi con trẻ, mà trở thành biểu tượng cho ký ức, khát vọng, đau thương và cả sự hồi sinh bền bỉ của con người Việt Nam.

Bài thơ mở ra bằng một bức tranh tuổi thơ ngọt ngào, bình dị:

Ngày còn để chỏm chăn bê,
Xin tre hàng xóm, mải mê vót diều.
Vòi cha gọt sáo cho kêu,
Phất thơm nước cậy, xe đều dây gai.

Tiếng sáo diều ở đây là tiếng gọi đầu tiên của cuộc đời: là trò chơi thơ ngây, là tình cha con, là gió đồng hương, là giấc mơ nhỏ trong lòng một đứa trẻ chăn bê. Nó trong trẻo như tuổi thơ chưa vẩn đục, như “phất thơm nước cậy” giữa chiều quê thanh bình.

Nhưng cái đẹp mong manh ấy sớm bị xé toạc bởi hiện thực tàn bạo:

Tây lùng cộng sản, bắt cha mất rồi!
Bê non bán chạy cho người,
Tôi buồn, tôi chả buồn chơi thả diều.

Chỉ trong một khổ thơ, tiếng sáo ngưng bặt, tuổi thơ ngã rạp. Cha bị bắt, con bò non cũng không giữ được, trò chơi diều gió bỗng hóa nỗi đau. Câu thơ giản dị “Tôi buồn, tôi chả buồn chơi thả diều” nghe như một tiếng thở dài nhỏ mà xé lòng.

Từ đó, tiếng sáo diều trở thành âm thanh gợi nhớ:

Đầu làng tiếng sáo ai kêu,
Tưởng đâu tiếng nấc trẻ nghèo thương cha.

Tiếng sáo không còn vô tư nữa. Nó hóa tiếng khóc, tiếng thương, tiếng gọi người đi biệt. Rồi thời gian trôi, người cha trở về, mái đình đỏ cờ, đất nước đổi thay, và tiếng sáo diều lại cất lên – nhưng không phải tiếng sáo của chơi đùa, mà là tiếng sáo của tự do:

Chiều thu diều đóng sáo đôi,
Thênh thênh gió hát giữa trời tự do.

Câu thơ đẹp như một giấc mơ. Trong không gian thanh bình ấy, tiếng sáo diều trở thành biểu tượng của sự sum vầy, của mùa mới sau những mất mát, của cánh đồng vừa gặt lúa chiêm, của lá cờ vừa kéo lên nóc đình làng. Nhưng rồi một lần nữa:

Súng thù bỗng nổ, đồn thù lại xây…
Tôi xin đi Vệ quốc đoàn,
Đất tề cha ở, bám làng bám dân.

Sóng gió chưa dứt. Tuổi trẻ lại ra đi, và tiếng sáo diều – lần này – ngân vang trên lưng đồi hành quân, giữa bốn bề ổ cọp hang beo. Đó là một tiếng gọi của ký ức, của cội nguồn, nâng đỡ những người lính trẻ đi giữa hiểm nguy.

Bài thơ tiếp tục chảy theo mạch của đất nước:

Hoà bình đẹp cánh bồ câu,
Tóc cha tôi bạc như màu trời xanh…

Chiến tranh qua, hòa bình về. Tiếng sáo lại ngân, ruộng đồng lại tươi, mái đình lại treo cờ đỏ. Nhưng niềm vui chưa trọn thì một biến cố khác ập đến:

Bỗng mà oán mượn, thù vay,
Cha tôi phải sống những ngày tối tăm.

Đây là những năm tháng cải cách ruộng đất, nơi những người từng kháng chiến, từng bị địch bắt tù đày, nay bỗng rơi vào oan sai. Sáo diều lặng thinh. Gió vẫn thổi nhưng sáo không reo – vì:

Bụi đầy miệng sáo nín câm,
Dây treo chuột cắn, khung nằm mối xông.

Những câu thơ đau đáu, không trách móc, không lên án, mà chỉ nhẹ nhàng phơi bày nỗi đau bằng hình ảnh hoang tàn. Một chiếc sáo câm, một khung diều mối xông – cũng đủ để nói lên cả một giai đoạn bất trắc trong tâm hồn người dân quê.

Và rồi, khi công lý được phục hồi, khi cha được minh oan, thì tiếng sáo lại trở về:

Cha tôi lại được phục hồi,
Lại mê công tác, lại chơi thả diều.

Diều kêu tiếng sắt tiếng vàng,
Thâu đêm réo rắt, cả làng vui chung…

Tiếng sáo giờ đây không chỉ là tiếng chơi, mà là tiếng của sự sống hồi sinh, của cộng đồng cùng khắc khoải – cùng vui. Câu thơ “thâu đêm réo rắt, cả làng vui chung” là bản hợp xướng của một làng quê từng tan tác, giờ lại sum vầy trong tiếng sáo của niềm tin và hồi phục.

Và kết lại, nhà thơ trở về trong hình ảnh người lính biên phòng – vẫn xa quê, vẫn nhớ tiếng sáo:

Đào cao đổi gác, ra về,
Nghe chim rừng hót, tưởng nghe sáo diều.

Ký ức quê hương đã hóa thành âm thanh, sống trong tâm tưởng. Sáo diều giờ đây không còn là vật, mà là một phần của hồn người. Bài thơ khép lại trong âm thanh ấy – vi vu, man mác, nhưng cũng sâu thẳm như chính chiều sâu của lịch sử một con người, một gia đình, một dân tộc.

“Chuyện tiếng sáo diều” không chỉ là một hồi ký thi ca, mà còn là một bản tráng ca dân tộc – nơi từng biến động lớn lao được kể lại bằng giọng nói dung dị của một người quê. Qua tiếng sáo diều, Nguyễn Bính đã viết nên một thiên sử nhỏ về làng, về nước, về gia đình, và trên hết – về niềm tin bền bỉ vào sự trở lại của những điều đẹp đẽ.

Tiếng sáo ấy – từ trò chơi tuổi thơ, đã hóa thành tiếng lòng của cả một thế hệ.
Và đến hôm nay, ta vẫn nghe tiếng sáo đó vọng về:
Một nỗi nhớ dài, một khúc nhạc quê, một bài ca không bao giờ tắt.

*

Nguyễn Bính (1918-1966) là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách mộc mạc, giản dị, đậm chất dân gian và mang hồn quê sâu sắc. Thơ Nguyễn Bính thường gắn với hình ảnh thôn quê, con người bình dị và những chuyện tình duyên đầy cảm xúc, thể hiện một tâm hồn tha thiết với truyền thống. Một số bài thơ tiêu biểu như Lỡ bước sang ngang, Tương tư, Chân quê… đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.

Viên Ngọc Quý

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *